Wikisource viwikisource https://vi.wikisource.org/wiki/Trang_Ch%C3%ADnh MediaWiki 1.45.0-wmf.6 first-letter Phương tiện Đặc biệt Thảo luận Thành viên Thảo luận Thành viên Wikisource Thảo luận Wikisource Tập tin Thảo luận Tập tin MediaWiki Thảo luận MediaWiki Bản mẫu Thảo luận Bản mẫu Trợ giúp Thảo luận Trợ giúp Thể loại Thảo luận Thể loại Chủ đề Thảo luận Chủ đề Tác gia Thảo luận Tác gia Trang Thảo luận Trang Mục lục Thảo luận Mục lục Biên dịch Thảo luận Biên dịch TimedText TimedText talk Mô đun Thảo luận Mô đun Đề tài Tống Triều Tiên quốc sứ kỳ nhất 0 21203 195780 54023 2025-06-19T06:22:24Z Mrfly911 2215 Dùng Copilot dịch. 195780 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 送朝鮮國使其一 - Tống Triều Tiên quốc sứ kỳ nhất - Tiễn sứ thần Triều Tiên kỳ đầu | tác giả = Lê Quý Đôn | dịch giả = | năm = | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Năm [[w:1760|1760]], sứ thần [[w:Nhà Lê trung hưng|nhà Lê Trung Hưng]] là [[w:Lê Quý Đôn|Lê Quý Đôn]] lại gặp đoàn sứ thần [[w:Nhà Triều Tiên|Triều Tiên]] do [[w:Hồng Khải Hi|Hồng Khải Hy]] (洪启禧 - 홍계희) đứng đầu khi sứ thần cả hai nước đang đi sứ [[w:nhà Thanh|nhà Thanh]]. Sau đó, ông đã làm thơ với họ, và cho họ xem ba tác phẩm của mình là ''Thánh mô hiền phạm lục, Quần thư khảo biện'' và ''Tiêu Tương bách vịnh''<ref name="ReferenceA">Theo "Tiểu sử Lê Quý Đôn", tr. 304.</ref>. Tài văn chương và ứng đáp của ông làm cho họ "phải tôn trọng"<ref>Theo Phan Huy Chú, mục: "Nhân vật chí", tr. 391.</ref>, "phải khen ngợi"<ref>Theo Dương Quảng Hàm, tr. 307.</ref>. }} {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! &nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 異邦合志亦同方, 學術本從先素王。 完福共欣歌五善, 逸才偏愧乏三長。 側釐白錘交投贈, 端委洪疇覓表章。 信筆書黃終歉歉, 粲花清論過揄揚。 </poem> | <poem> Dị bang hợp chí diệc đồng phương, Học thuật bản tòng Tiên Tố Vương. Hoàn phúc cộng hân ca ngũ thiện, Dật tài thiên quý phạp tam trường. Trắc ly, bạch truỵ giao đầu tặng, Đoan uỷ, hồng trù mịch biểu chương. Tín bút thư hoàng chung khiểm khiểm, Xán hoa thanh luận quá du dương. </poem> |} ==Dịch thơ== === Bản dịch 1 === 異邦合志亦同方 Tuy khác quê hương, chí cùng phương, 學術本從先素王 Học thuật vốn theo gương thánh vương. 完福共欣歌五善 Trọn phúc cùng vui ca ngũ thiện, 逸才偏愧乏三長 Tài cao riêng thẹn thiếu ba trường. 側釐白錘交投贈 Nghiêng lòng búa trắng trao tặng bạn, 端委洪疇覓表章 Ngồi ngay đất rộng tìm văn chương. 信筆書黃終歉歉 Tùy bút ghi vàng lòng áy náy, 粲花清論過揄揚 Lời bàn thanh nhã vượt khen thường. === Bản dịch 2=== 異邦合志亦同方 Khác nước chung lòng vẫn một phương, 學術本從先素王 Đạo học noi theo gương thánh vương. 完福共欣歌五善 Trọn phúc cùng vui ca ngũ thiện, 逸才偏愧乏三長 Tài cao riêng thẹn thiếu ba trường. 側釐白錘交投贈 Nghiêng lòng búa ngọc trao nhau tặng, 端委洪疇覓表章 Ngồi thẳng đất rộng chọn văn chương. 信筆書黃終歉歉 Tùy bút đề vàng lòng áy náy, 粲花清論過揄揚 Lời bàn như gấm vượt khen thường. {{chú thích cuối trang}} [[Thể loại:Thơ Việt Nam]] fb7gufvxt5y2e094ms2mzj8evllhxoj Lê Thì Cử đối đáp Tào Thân (1) 0 21204 195771 53992 2025-06-19T03:07:41Z Mrfly911 2215 Dùng Copilot dịch. 195771 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = Không đề (bài thơ số 1 Lê Thì Cử đối đáp Tào Thân) | tác giả = Lê Thì Cử | dịch giả = | năm = | phần = | trước = | sau = | ghi chú = [[w:Thế kỷ 15|Thế kỉ 15]], sứ thần [[w:Nhà Lê sơ|nhà Lê]] nước Đại Việt là [[w:Lê Thì Cử|Lê Thì Cử]] (黎時舉) khi đi sứ [[w:nhà Minh|nhà Minh]] đã gặp sứ [[w:Nhà Triều Tiên|Triều Tiên]] là Tào Thân (조신<small>/</small>曺伸) tại thủ đô [[w:Bắc Kinh|Yên Kinh]]. Cả hai cùng nói chuyện thơ văn và làm thơ xướng hoạ. Câu chuyện gặp gỡ giao lưu này được xác định vào đời vua [[w:Triều Tiên Thành Tông|Triều Tiên Thành Tông]] ([[w:1469|1469]] - [[w:1494|1494]]) }} {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! Phiên âm Hán Việt ! Dịch nghĩa |- | <poem> 三韓見說景偏殊<br /> 鴨綠澄澄水色秋<br /> 知是江山詩思好<br /> 還將句法效蘇州<br /> </poem> | <poem> [[w:Tam Hàn|Tam Hàn]] kiến thuyết cảnh thiên thù <br /> [[w:Áp Lục|Áp Lục]] rừng rừng thủy sắc thu <br /> Tri thị giang sơn thi tư hảo <br /> Hoàn tương cú pháp hiệu [[w:Tô Châu|Tô Châu]] </poem> | <poem> </poem> |} == Dịch nghĩa == === Bản dịch 1 === <poem> Tam Hàn phong vật dị thường thay, Áp Lục thu sang thủy sắc khai. Lâm vũ thanh vân soi bóng nguyệt, Giang thanh tịch mịch lặng hương đài. Thi tâm khởi giữa non sông đẹp, Vận ý nẩy trong nhật nguyệt dài. Câu pháp nguyện theo Tô tử bút, Mượn vần danh sĩ tả thiên đài. </poem> === Bản dịch 2 === <poem> Tam Hàn phong cảnh khác thường thay, Áp Lục thu về nước biếc đầy. Trời lặng, mây trong soi bóng núi, Gió êm, sóng nhẹ lướt chân mây. Giang sơn gợi ý vần thơ đẹp, Thi tứ nảy sinh giữa tháng ngày. Muốn viết câu hay như đất Tô, Mượn tay danh sĩ vẽ tranh này. </poem> === Bản dịch 3 === <poem> Ba Hàn phong cảnh lạ thay, Nghe qua đã thấy mê say cõi này. Áp Lục nước biếc trời mây, Mùa thu trong vắt, gió bay lững lờ. Non sông gợi ý làm thơ, Tình quê, cảnh đẹp, vần thơ dạt dào. Câu từ bắt chước Tô Châu, Mượn tay danh sĩ tô màu giang san. </poem> [[Thể loại:Thơ Việt Nam]] qfp4m49pgk83z912e3vsa5ddmoscubb 195772 195771 2025-06-19T03:12:49Z Mrfly911 2215 195772 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = Không đề (bài thơ số 1 Lê Thì Cử đối đáp Tào Thân) | tác giả = Lê Thì Cử | dịch giả = | năm = | phần = | trước = | sau = | ghi chú = [[w:Thế kỷ 15|Thế kỉ 15]], sứ thần [[w:Nhà Lê sơ|nhà Lê]] nước Đại Việt là [[w:Lê Thì Cử|Lê Thì Cử]] (黎時舉) khi đi sứ [[w:nhà Minh|nhà Minh]] đã gặp sứ [[w:Nhà Triều Tiên|Triều Tiên]] là Tào Thân (조신<small>/</small>曺伸) tại thủ đô [[w:Bắc Kinh|Yên Kinh]]. Cả hai cùng nói chuyện thơ văn và làm thơ xướng hoạ. Câu chuyện gặp gỡ giao lưu này được xác định vào đời vua [[w:Triều Tiên Thành Tông|Triều Tiên Thành Tông]] ([[w:1469|1469]] - [[w:1494|1494]]) }} {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! &nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 三韓見說景偏殊<br /> 鴨綠澄澄水色秋<br /> 知是江山詩思好<br /> 還將句法效蘇州<br /> </poem> | <poem> [[w:Tam Hàn|Tam Hàn]] kiến thuyết cảnh thiên thù <br /> [[w:Áp Lục|Áp Lục]] rừng rừng thủy sắc thu <br /> Tri thị giang sơn thi tư hảo <br /> Hoàn tương cú pháp hiệu [[w:Tô Châu|Tô Châu]] </poem> | |} == Dịch nghĩa == === Bản dịch 1 === <poem> Tam Hàn phong vật dị thường thay, Áp Lục thu sang thủy sắc khai. Lâm vũ thanh vân soi bóng nguyệt, Giang thanh tịch mịch lặng hương đài. Thi tâm khởi giữa non sông đẹp, Vận ý nẩy trong nhật nguyệt dài. Câu pháp nguyện theo Tô tử bút, Mượn vần danh sĩ tả thiên đài. </poem> === Bản dịch 2 === <poem> Tam Hàn phong cảnh khác thường thay, Áp Lục thu về nước biếc đầy. Trời lặng, mây trong soi bóng núi, Gió êm, sóng nhẹ lướt chân mây. Giang sơn gợi ý vần thơ đẹp, Thi tứ nảy sinh giữa tháng ngày. Muốn viết câu hay như đất Tô, Mượn tay danh sĩ vẽ tranh này. </poem> === Bản dịch 3 === <poem> Ba Hàn phong cảnh lạ thay, Nghe qua đã thấy mê say cõi này. Áp Lục nước biếc trời mây, Mùa thu trong vắt, gió bay lững lờ. Non sông gợi ý làm thơ, Tình quê, cảnh đẹp, vần thơ dạt dào. Câu từ bắt chước Tô Châu, Mượn tay danh sĩ tô màu giang san. </poem> [[Thể loại:Thơ Việt Nam]] 9de2f9lhbmfdj3t6rdsrocxlkup4t6y Lê Thì Cử đối đáp Tào Thân (2) 0 21205 195773 53993 2025-06-19T03:20:08Z Mrfly911 2215 Dùng Copilot dịch. 195773 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = Không đề (bài thơ số 2 Lê Thì Cử đối đáp Tào Thân) | tác giả = Lê Thì Cử | dịch giả = | năm = | phần = | trước = | sau = | ghi chú = [[w:Thế kỷ 15|Thế kỉ 15]], sứ thần [[w:Nhà Lê sơ|nhà Lê]] nước Đại Việt là [[w:Lê Thì Cử|Lê Thì Cử]] (黎時舉) khi đi sứ [[w:nhà Minh|nhà Minh]] đã gặp sứ [[w:Nhà Triều Tiên|Triều Tiên]] là Tào Thân (조신<small>/</small>曺伸) tại thủ đô [[w:Bắc Kinh|Yên Kinh]]. Cả hai cùng nói chuyện thơ văn và làm thơ xướng hoạ. Câu chuyện gặp gỡ giao lưu này được xác định vào đời vua [[w:Triều Tiên Thành Tông|Triều Tiên Thành Tông]] ([[w:1469|1469]] - [[w:1494|1494]]) }} {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! &nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 馬辰遺俗古人殊<br /> 世代相移幾度秋<br /> 耨薩名官何意義<br /> 知君禮制異中州<br /> </poem> | <poem> Mã thần di tục cổ nhân thù <br /> Thế đại tương di ki độ thu <br /> Nậu tát danh quan hà ý nghĩa <br /> Tri quân lễ chế dị trung châu </poem> |} == Dịch nghĩa == === Bản dịch 1 === 馬辰遺俗古人殊 Phong tục Mã Thìn khác xưa nhiều, 世代相移幾度秋 Thế hệ đổi thay biết mấy thu, 耨薩名官何意義 Chức danh Nậu Tát mang ý nghĩa gì, 知君禮制異中州 Biết rằng lễ chế khác Trung châu. === Bản dịch 2 === Mã Thìn phong tục khác xưa thay, Thế sự xoay vần mấy độ ngày. Danh tước Nậu Tát mang chi nghĩa, Lễ nghi phương Bắc khác phương này. === Bản dịch 3 === Mã Thìn phong tục khác người xưa, Thế sự xoay vần mấy độ mùa. Nậu Tát danh quan mang nghĩa lạ, Lễ nghi đâu giống chốn Trung châu. [[Thể loại:Thơ Việt Nam]] 4ywl0jy6axhh6xt9c121y41dkqrj48z Thảo luận Thành viên:Mrfly911 3 21207 195833 149666 2025-06-19T10:02:33Z Tranminh360 1642 Mục mới: /* Bình An Nam chiếu */ 195833 wikitext text/x-wiki <div align="center"> <div class="tabber"> <div class="tabbertab" title="Sản phẩm cộng tác trong Tháng"> <table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%" style="font-size: x-small;"> <tr> <td> {{Infosection|name=[[Thảo luận Wikisource:Cộng tác của Tháng|Giúp chọn văn kiện cho tháng tới]]| <center>{{CotM}}</center> }} </td> </tr> </table> </div> <!-- <div class="tabbertab" title="Bài hát của Tuần"> <table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%" style="font-size: x-small;"> <tr> <td> {{Infosection|name=[[Thảo luận Wikisource:Bài hát của Tuần|Giúp chọn bài hát cho tuần tới]]| {{Bài hát trong Tuần}} }} </td> </tr> </table> </div> --> <div class="tabbertab" title="Bài cần duyệt của Tháng"> <table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%" style="font-size: x-small;"> <tr> <td> {{Infosection|name=[[Thảo luận Wikisource:Hiệu đính của Tháng|Giúp chọn bài cần duyệt của tháng tới]]| <center>{{PotM}}</center> }} </td> </tr> </table> </div> </div> </div> <div align="center" style="clear: both;"> <div class="tabber"> <div class="tabbertab" title="Tìm văn kiện"> <table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%" style="font-size: x-small;"> <tr valign="top"> <td> {{Infosection|name=Hoan nghênh bạn đến với Wikisource!|[[Image:Edmond Picard.jpg|right|200px]]}} </td> <td> {{Infosection|name=Giờ thì bạn đã đến đây, chắc bạn đang thắc mắc...| Xin chào! Cảm ơn bạn đã tham gia Wikisource; chúng tôi rất là vui vì bạn đã ghé thăm và bắt tay sửa đổi. Chúng tôi chỉ là một cộng đồng rất non trẻ chỉ vài chục người, nhưng được sự giúp đỡ vô tận từ những người ghé qua. Dám cá là bạn đang không biết chúng tôi xem bạn thuộc thành phần nào trên hai thành phần đó...ừ thì điều đó tùy thuộc vào bạn thôi. Bạn sẽ thấy chúng tôi là một góc nhỏ riêng biệt của [[w:Wikimedia Foundation|Quỹ Wikimedia]], miễn nhiễm với đủ loại tranh luận, tranh cãi hay các kiểu vi phạm quy định mà bạn hay thấy ở dự án khác. Thật lòng mà nói, vì chúng tôi chủ yếu đăng lại chính xác những gì người khác đã từng viết ra, thì ngại gì những vấn đề kiểu như "tính trung lập". Vả lại, nếu một bài diễn văn do [[Tác gia:Adolf Hitler|Adolf Hitler]] viết nên đầy kích động và thiên lệch...thì chẳng phải đó là mục đích của bài diễn văn đó sao? Nếu bạn đang tìm một chủ đề nào đó, bạn có thể thấy nó tại [[Wikisource:Tác phẩm]], dù nó là [[Wikisource:Phật giáo]] hay [[Wikisource:Truyện tiếu lâm]]. Để xem qua thể loại, tốt nhất là xem các thể loại kiểu như [[:Thể loại:Thơ]] hay [[:Thể loại:Tiểu thuyết]]. Tất nhiên, nếu bạn biết tên tác gia, cách dễ nhất đó là vào ngay "[[Tác gia:Nguyễn Trãi]]" sẽ thấy được tất cả những gì ông từng viết (hoặc được viết về ông!). }} </td> </tr> </table> </div> <div class="tabbertab" title="Đóng góp văn kiện"> <table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%" style="font-size: x-small;"> <tr valign="top"> <td> {{Infosection|name=Cơ hội ở đây là, bạn rất thích một chủ đề nào đó mà chúng tôi thì chưa có nhiều...vậy thì, đây là cách thay đổi điều đó!| Vậy là, tác gia hay chủ đề bạn ưa thích không có nhiều hoặc chưa đủ trên dự án? Miễn là bạn chắc cú rằng văn kiện [[Trợ giúp:Phạm vi công cộng|phù hợp với tiêu chuẩn Phạm vi công cộng]], bạn có thể tự tay đưa nó vào ngay! (''Cũng như mọi luật chơi, đó chỉ là những chỉ dẫn cơ bản, nếu bạn thấy có ngoại lệ, cứ hỏi [[Wikisource:Bảo quản viên|một bảo quản viên]] để được giúp'') Nếu văn kiện chưa có trên này, chỉ cần gõ tên nó vào dưới là nó sẽ đưa bạn đến trang sửa đổi để bạn bắt tay vào làm! Nhớ đừng quên thêm {{tl|chưa có đầu đề}} vào đầu trang, rồi bỏ [[:Thể loại:Tác phẩm|thể loại]] vào để mọi người còn kiếm ra nó mà đọc. <inputbox> type=create preload= editintro= width=25 bgcolor=#f0f0ff </inputbox> }} Nếu bạn chẳng nghĩ ra được thứ gì để cải thiện Wikisource, vậy sao không xem thử [[Wikisource:Văn kiện tôn giáo]], [[Wikisource:Chiến tranh]] hay [[Wikisource:Văn kiện theo Quốc gia]] để lấy ý tưởng? Đừng quên đặt những đóng góp của bạn vào các trang đó để mà người khác có thể đọc chúng! </td> <td> {{Infosection|name=<small>Đọc khi nào muốn, đọc cách mình muốn</small>|[[Image:Francesco Hayez 027.jpg|right|150px]]}} </td> </tr> </table> </div> <div class="tabbertab" title="Tham gia sâu hơn"> <table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%" style="font-size: x-small;"> <tr valign="top"> <td> {{Infosection|name=Đến và gặp gỡ mọi người|[[Image:Book of Hours detail.jpg|left|150px]] Nếu bạn đã nhấn tới tab này rồi, thì bạn chắc vẫn muốn bỏ thêm vài giờ để làm quen với thư viện của chúng ta. Nó chưa được hoàn hảo đâu bạn à, đâu đó vẫn còn lỗi chính tả hay văn kiện sắp xếp chưa đúng. Hãy giúp chúng tôi, báo cho chúng tôi biết, hoặc tự mình sửa lấy! Nếu bạn thấy chán và chỉ muốn nhặt cây chổi lên dọn dẹp, thì đây, có nhiều thứ cần phải dọn lắm. [[:Thể loại:Tác phẩm thiếu bản mẫu đầu đề|Tác phẩm thiếu bản mẫu đầu đề]] chẳng hạn là những nơi rất tuyệt để bắt đầu! }} </td> <td> {{Infosection|name=Giúp&nbsp;chúng&nbsp;tôi| * [[Wikisource:Thảo luận|Khu vực thảo luận trung tâm]] * [irc://irc.freenode.net/wikisource Thảo luận IRC] * [[:Thể loại:Bản dịch dang dở|Bản dịch dang dở]] * [[Wikisource:Có thể vi phạm bản quyền|Có thể vi phạm bản quyền]] * [[Wikisource:Đề nghị xóa|Biểu quyết xóa trang]] * [[Special:RecentChanges|Thay đổi gần đây]]}} </td> </tr> </table> </div> </div> </div> [[Thành viên:Tranminh360|Tranminh360]] ([[Thảo luận Thành viên:Tranminh360|thảo luận]]) 05:47, ngày 24 tháng 6 năm 2016 (UTC) == Văn kiện chữ Hán == Về các văn kiện chữ Hán, bạn nên tự dịch ra tiếng Việt nếu có thể bằng bản mẫu {{tl|Translation table/zh}}, xem ví dụ ở trang [[Nam Ông mộng lục]]. Còn nếu chỉ phiên âm Hán-Việt thì nên dùng bản mẫu {{tl|Ruby}}, xem ví dụ ở trang [[Nhập Dược Kính]]. Ngoài ra bạn hãy vào [[Đặc biệt:Tùy chọn#mw-prefsection-gadgets]], kích hoạt tiện ích ''Tải sẵn các bản mẫu hữu ích như đầu đề và thông tin văn kiện'', hệ thống sẽ tự động tải bản mẫu {{tl|đầu đề}} mỗi khi bạn tạo trang mới, khỏi cần chép lại từ trang khác. [[Thành viên:Tranminh360|Tranminh360]] ([[Thảo luận Thành viên:Tranminh360|thảo luận]]) 01:54, ngày 29 tháng 6 năm 2016 (UTC) == [[Tác gia:John Crawfurd]] == Bạn tạo trang Tác gia mà không hề có tác phẩm nào trên Wikisource tiếng Việt, vậy thì bạn tạo trang Tác gia làm gì? [[Thành viên:Tranminh360|Tranminh360]] ([[Thảo luận Thành viên:Tranminh360|thảo luận]]) 05:43, ngày 10 tháng 3 năm 2023 (UTC) :Xin lỗi vì thiếu sót. Do tác giả này có các tác phẩm được upload bên wiki common dạng pdf nên tôi liệt kê và đưa link vào. Tôi chưa có thời gian để chuyển các file pdf thành wiki source. Liệu có thể tạm thời giữ lại tác giả này để tham khảo khi viết bài bên Wikipedia không bạn? – [[Thành viên:Mrfly911|Mrfly911]] ([[Thảo luận Thành viên:Mrfly911|thảo luận]]) 09:40, ngày 10 tháng 3 năm 2023 (UTC) ::Các tác phẩm của tác gia này đều bằng tiếng Anh nên chỉ có thể được lưu trữ ở Wikisource tiếng Anh. Nếu bạn muốn lưu trữ các tác phẩm này ở Wikisource tiếng Việt thì bạn phải dịch chúng sang tiếng Việt, bản dịch sẽ nằm trong không gian tên Biên dịch, ví dụ: [[Biên dịch:Món quà Giáng sinh]]. [[Thành viên:Tranminh360|Tranminh360]] ([[Thảo luận Thành viên:Tranminh360|thảo luận]]) 10:33, ngày 10 tháng 3 năm 2023 (UTC) :::Ồ vâng, cảm ơn bạn. Phiền bạn chỉnh/xóa giúp. Khi nào có thời gian tôi sẽ Việt hóa và tạo không gian Biên dịch. – [[Thành viên:Mrfly911|Mrfly911]] ([[Thảo luận Thành viên:Mrfly911|thảo luận]]) 14:50, ngày 10 tháng 3 năm 2023 (UTC) == [[Bình An Nam chiếu]] == Xin lỗi bạn nhưng việc bạn lấy bản dịch tiếng Anh của Geoff Wade rồi dịch ra tiếng Việt là vi phạm bản quyền vì bản dịch của Geoff Wade là có bản quyền: ngay [https://epress.nus.edu.sg/msl/reign/yong-le/year-5-month-6-day-1 trang nguồn] đã ghi rõ ''This translation of the Ming Shi-lu, and all commentary text, is copyright © Geoff Wade, 2025. Please make use of this material by browsing the website. Spidering or harvesting of this database without the permission of the copyright holder will be considered a violation of copyright. That being said, if you are interested to use the data here, please reach out to NUS Press.'' Bạn cần dịch trực tiếp từ bản tiếng Trung vì chỉ có bản tiếng Trung thuộc phạm vi công cộng do tác giả đã chết quá 100 năm. [[Thành viên:Tranminh360|Tranminh360]] ([[Thảo luận Thành viên:Tranminh360|thảo luận]]) 10:02, ngày 19 tháng 6 năm 2025 (UTC) 7fcnsqr13nsn7yhhbd9xp9mggm142su 195834 195833 2025-06-19T10:13:05Z Tranminh360 1642 /* Bình An Nam chiếu */ 195834 wikitext text/x-wiki <div align="center"> <div class="tabber"> <div class="tabbertab" title="Sản phẩm cộng tác trong Tháng"> <table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%" style="font-size: x-small;"> <tr> <td> {{Infosection|name=[[Thảo luận Wikisource:Cộng tác của Tháng|Giúp chọn văn kiện cho tháng tới]]| <center>{{CotM}}</center> }} </td> </tr> </table> </div> <!-- <div class="tabbertab" title="Bài hát của Tuần"> <table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%" style="font-size: x-small;"> <tr> <td> {{Infosection|name=[[Thảo luận Wikisource:Bài hát của Tuần|Giúp chọn bài hát cho tuần tới]]| {{Bài hát trong Tuần}} }} </td> </tr> </table> </div> --> <div class="tabbertab" title="Bài cần duyệt của Tháng"> <table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%" style="font-size: x-small;"> <tr> <td> {{Infosection|name=[[Thảo luận Wikisource:Hiệu đính của Tháng|Giúp chọn bài cần duyệt của tháng tới]]| <center>{{PotM}}</center> }} </td> </tr> </table> </div> </div> </div> <div align="center" style="clear: both;"> <div class="tabber"> <div class="tabbertab" title="Tìm văn kiện"> <table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%" style="font-size: x-small;"> <tr valign="top"> <td> {{Infosection|name=Hoan nghênh bạn đến với Wikisource!|[[Image:Edmond Picard.jpg|right|200px]]}} </td> <td> {{Infosection|name=Giờ thì bạn đã đến đây, chắc bạn đang thắc mắc...| Xin chào! Cảm ơn bạn đã tham gia Wikisource; chúng tôi rất là vui vì bạn đã ghé thăm và bắt tay sửa đổi. Chúng tôi chỉ là một cộng đồng rất non trẻ chỉ vài chục người, nhưng được sự giúp đỡ vô tận từ những người ghé qua. Dám cá là bạn đang không biết chúng tôi xem bạn thuộc thành phần nào trên hai thành phần đó...ừ thì điều đó tùy thuộc vào bạn thôi. Bạn sẽ thấy chúng tôi là một góc nhỏ riêng biệt của [[w:Wikimedia Foundation|Quỹ Wikimedia]], miễn nhiễm với đủ loại tranh luận, tranh cãi hay các kiểu vi phạm quy định mà bạn hay thấy ở dự án khác. Thật lòng mà nói, vì chúng tôi chủ yếu đăng lại chính xác những gì người khác đã từng viết ra, thì ngại gì những vấn đề kiểu như "tính trung lập". Vả lại, nếu một bài diễn văn do [[Tác gia:Adolf Hitler|Adolf Hitler]] viết nên đầy kích động và thiên lệch...thì chẳng phải đó là mục đích của bài diễn văn đó sao? Nếu bạn đang tìm một chủ đề nào đó, bạn có thể thấy nó tại [[Wikisource:Tác phẩm]], dù nó là [[Wikisource:Phật giáo]] hay [[Wikisource:Truyện tiếu lâm]]. Để xem qua thể loại, tốt nhất là xem các thể loại kiểu như [[:Thể loại:Thơ]] hay [[:Thể loại:Tiểu thuyết]]. Tất nhiên, nếu bạn biết tên tác gia, cách dễ nhất đó là vào ngay "[[Tác gia:Nguyễn Trãi]]" sẽ thấy được tất cả những gì ông từng viết (hoặc được viết về ông!). }} </td> </tr> </table> </div> <div class="tabbertab" title="Đóng góp văn kiện"> <table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%" style="font-size: x-small;"> <tr valign="top"> <td> {{Infosection|name=Cơ hội ở đây là, bạn rất thích một chủ đề nào đó mà chúng tôi thì chưa có nhiều...vậy thì, đây là cách thay đổi điều đó!| Vậy là, tác gia hay chủ đề bạn ưa thích không có nhiều hoặc chưa đủ trên dự án? Miễn là bạn chắc cú rằng văn kiện [[Trợ giúp:Phạm vi công cộng|phù hợp với tiêu chuẩn Phạm vi công cộng]], bạn có thể tự tay đưa nó vào ngay! (''Cũng như mọi luật chơi, đó chỉ là những chỉ dẫn cơ bản, nếu bạn thấy có ngoại lệ, cứ hỏi [[Wikisource:Bảo quản viên|một bảo quản viên]] để được giúp'') Nếu văn kiện chưa có trên này, chỉ cần gõ tên nó vào dưới là nó sẽ đưa bạn đến trang sửa đổi để bạn bắt tay vào làm! Nhớ đừng quên thêm {{tl|chưa có đầu đề}} vào đầu trang, rồi bỏ [[:Thể loại:Tác phẩm|thể loại]] vào để mọi người còn kiếm ra nó mà đọc. <inputbox> type=create preload= editintro= width=25 bgcolor=#f0f0ff </inputbox> }} Nếu bạn chẳng nghĩ ra được thứ gì để cải thiện Wikisource, vậy sao không xem thử [[Wikisource:Văn kiện tôn giáo]], [[Wikisource:Chiến tranh]] hay [[Wikisource:Văn kiện theo Quốc gia]] để lấy ý tưởng? Đừng quên đặt những đóng góp của bạn vào các trang đó để mà người khác có thể đọc chúng! </td> <td> {{Infosection|name=<small>Đọc khi nào muốn, đọc cách mình muốn</small>|[[Image:Francesco Hayez 027.jpg|right|150px]]}} </td> </tr> </table> </div> <div class="tabbertab" title="Tham gia sâu hơn"> <table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%" style="font-size: x-small;"> <tr valign="top"> <td> {{Infosection|name=Đến và gặp gỡ mọi người|[[Image:Book of Hours detail.jpg|left|150px]] Nếu bạn đã nhấn tới tab này rồi, thì bạn chắc vẫn muốn bỏ thêm vài giờ để làm quen với thư viện của chúng ta. Nó chưa được hoàn hảo đâu bạn à, đâu đó vẫn còn lỗi chính tả hay văn kiện sắp xếp chưa đúng. Hãy giúp chúng tôi, báo cho chúng tôi biết, hoặc tự mình sửa lấy! Nếu bạn thấy chán và chỉ muốn nhặt cây chổi lên dọn dẹp, thì đây, có nhiều thứ cần phải dọn lắm. [[:Thể loại:Tác phẩm thiếu bản mẫu đầu đề|Tác phẩm thiếu bản mẫu đầu đề]] chẳng hạn là những nơi rất tuyệt để bắt đầu! }} </td> <td> {{Infosection|name=Giúp&nbsp;chúng&nbsp;tôi| * [[Wikisource:Thảo luận|Khu vực thảo luận trung tâm]] * [irc://irc.freenode.net/wikisource Thảo luận IRC] * [[:Thể loại:Bản dịch dang dở|Bản dịch dang dở]] * [[Wikisource:Có thể vi phạm bản quyền|Có thể vi phạm bản quyền]] * [[Wikisource:Đề nghị xóa|Biểu quyết xóa trang]] * [[Special:RecentChanges|Thay đổi gần đây]]}} </td> </tr> </table> </div> </div> </div> [[Thành viên:Tranminh360|Tranminh360]] ([[Thảo luận Thành viên:Tranminh360|thảo luận]]) 05:47, ngày 24 tháng 6 năm 2016 (UTC) == Văn kiện chữ Hán == Về các văn kiện chữ Hán, bạn nên tự dịch ra tiếng Việt nếu có thể bằng bản mẫu {{tl|Translation table/zh}}, xem ví dụ ở trang [[Nam Ông mộng lục]]. Còn nếu chỉ phiên âm Hán-Việt thì nên dùng bản mẫu {{tl|Ruby}}, xem ví dụ ở trang [[Nhập Dược Kính]]. Ngoài ra bạn hãy vào [[Đặc biệt:Tùy chọn#mw-prefsection-gadgets]], kích hoạt tiện ích ''Tải sẵn các bản mẫu hữu ích như đầu đề và thông tin văn kiện'', hệ thống sẽ tự động tải bản mẫu {{tl|đầu đề}} mỗi khi bạn tạo trang mới, khỏi cần chép lại từ trang khác. [[Thành viên:Tranminh360|Tranminh360]] ([[Thảo luận Thành viên:Tranminh360|thảo luận]]) 01:54, ngày 29 tháng 6 năm 2016 (UTC) == [[Tác gia:John Crawfurd]] == Bạn tạo trang Tác gia mà không hề có tác phẩm nào trên Wikisource tiếng Việt, vậy thì bạn tạo trang Tác gia làm gì? [[Thành viên:Tranminh360|Tranminh360]] ([[Thảo luận Thành viên:Tranminh360|thảo luận]]) 05:43, ngày 10 tháng 3 năm 2023 (UTC) :Xin lỗi vì thiếu sót. Do tác giả này có các tác phẩm được upload bên wiki common dạng pdf nên tôi liệt kê và đưa link vào. Tôi chưa có thời gian để chuyển các file pdf thành wiki source. Liệu có thể tạm thời giữ lại tác giả này để tham khảo khi viết bài bên Wikipedia không bạn? – [[Thành viên:Mrfly911|Mrfly911]] ([[Thảo luận Thành viên:Mrfly911|thảo luận]]) 09:40, ngày 10 tháng 3 năm 2023 (UTC) ::Các tác phẩm của tác gia này đều bằng tiếng Anh nên chỉ có thể được lưu trữ ở Wikisource tiếng Anh. Nếu bạn muốn lưu trữ các tác phẩm này ở Wikisource tiếng Việt thì bạn phải dịch chúng sang tiếng Việt, bản dịch sẽ nằm trong không gian tên Biên dịch, ví dụ: [[Biên dịch:Món quà Giáng sinh]]. [[Thành viên:Tranminh360|Tranminh360]] ([[Thảo luận Thành viên:Tranminh360|thảo luận]]) 10:33, ngày 10 tháng 3 năm 2023 (UTC) :::Ồ vâng, cảm ơn bạn. Phiền bạn chỉnh/xóa giúp. Khi nào có thời gian tôi sẽ Việt hóa và tạo không gian Biên dịch. – [[Thành viên:Mrfly911|Mrfly911]] ([[Thảo luận Thành viên:Mrfly911|thảo luận]]) 14:50, ngày 10 tháng 3 năm 2023 (UTC) == [[Bình An Nam chiếu]] == Xin lỗi bạn nhưng việc [[Đặc biệt:Khác/195797|bạn lấy bản dịch tiếng Anh của Geoff Wade rồi dịch ra tiếng Việt]] là vi phạm bản quyền vì bản dịch của Geoff Wade là có bản quyền: ngay [https://epress.nus.edu.sg/msl/reign/yong-le/year-5-month-6-day-1 trang nguồn] đã ghi rõ ''This translation of the Ming Shi-lu, and all commentary text, is copyright © Geoff Wade, 2025. Please make use of this material by browsing the website. Spidering or harvesting of this database without the permission of the copyright holder will be considered a violation of copyright. That being said, if you are interested to use the data here, please reach out to NUS Press.'' Bạn cần dịch trực tiếp từ bản tiếng Trung vì chỉ có bản tiếng Trung thuộc phạm vi công cộng do tác giả đã chết quá 100 năm. [[Thành viên:Tranminh360|Tranminh360]] ([[Thảo luận Thành viên:Tranminh360|thảo luận]]) 10:02, ngày 19 tháng 6 năm 2025 (UTC) j097l8thap0498unp540b92pk67vw21 195835 195834 2025-06-19T10:25:33Z Mrfly911 2215 /* Bình An Nam chiếu */ Trả lời 195835 wikitext text/x-wiki <div align="center"> <div class="tabber"> <div class="tabbertab" title="Sản phẩm cộng tác trong Tháng"> <table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%" style="font-size: x-small;"> <tr> <td> {{Infosection|name=[[Thảo luận Wikisource:Cộng tác của Tháng|Giúp chọn văn kiện cho tháng tới]]| <center>{{CotM}}</center> }} </td> </tr> </table> </div> <!-- <div class="tabbertab" title="Bài hát của Tuần"> <table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%" style="font-size: x-small;"> <tr> <td> {{Infosection|name=[[Thảo luận Wikisource:Bài hát của Tuần|Giúp chọn bài hát cho tuần tới]]| {{Bài hát trong Tuần}} }} </td> </tr> </table> </div> --> <div class="tabbertab" title="Bài cần duyệt của Tháng"> <table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%" style="font-size: x-small;"> <tr> <td> {{Infosection|name=[[Thảo luận Wikisource:Hiệu đính của Tháng|Giúp chọn bài cần duyệt của tháng tới]]| <center>{{PotM}}</center> }} </td> </tr> </table> </div> </div> </div> <div align="center" style="clear: both;"> <div class="tabber"> <div class="tabbertab" title="Tìm văn kiện"> <table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%" style="font-size: x-small;"> <tr valign="top"> <td> {{Infosection|name=Hoan nghênh bạn đến với Wikisource!|[[Image:Edmond Picard.jpg|right|200px]]}} </td> <td> {{Infosection|name=Giờ thì bạn đã đến đây, chắc bạn đang thắc mắc...| Xin chào! Cảm ơn bạn đã tham gia Wikisource; chúng tôi rất là vui vì bạn đã ghé thăm và bắt tay sửa đổi. Chúng tôi chỉ là một cộng đồng rất non trẻ chỉ vài chục người, nhưng được sự giúp đỡ vô tận từ những người ghé qua. Dám cá là bạn đang không biết chúng tôi xem bạn thuộc thành phần nào trên hai thành phần đó...ừ thì điều đó tùy thuộc vào bạn thôi. Bạn sẽ thấy chúng tôi là một góc nhỏ riêng biệt của [[w:Wikimedia Foundation|Quỹ Wikimedia]], miễn nhiễm với đủ loại tranh luận, tranh cãi hay các kiểu vi phạm quy định mà bạn hay thấy ở dự án khác. Thật lòng mà nói, vì chúng tôi chủ yếu đăng lại chính xác những gì người khác đã từng viết ra, thì ngại gì những vấn đề kiểu như "tính trung lập". Vả lại, nếu một bài diễn văn do [[Tác gia:Adolf Hitler|Adolf Hitler]] viết nên đầy kích động và thiên lệch...thì chẳng phải đó là mục đích của bài diễn văn đó sao? Nếu bạn đang tìm một chủ đề nào đó, bạn có thể thấy nó tại [[Wikisource:Tác phẩm]], dù nó là [[Wikisource:Phật giáo]] hay [[Wikisource:Truyện tiếu lâm]]. Để xem qua thể loại, tốt nhất là xem các thể loại kiểu như [[:Thể loại:Thơ]] hay [[:Thể loại:Tiểu thuyết]]. Tất nhiên, nếu bạn biết tên tác gia, cách dễ nhất đó là vào ngay "[[Tác gia:Nguyễn Trãi]]" sẽ thấy được tất cả những gì ông từng viết (hoặc được viết về ông!). }} </td> </tr> </table> </div> <div class="tabbertab" title="Đóng góp văn kiện"> <table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%" style="font-size: x-small;"> <tr valign="top"> <td> {{Infosection|name=Cơ hội ở đây là, bạn rất thích một chủ đề nào đó mà chúng tôi thì chưa có nhiều...vậy thì, đây là cách thay đổi điều đó!| Vậy là, tác gia hay chủ đề bạn ưa thích không có nhiều hoặc chưa đủ trên dự án? Miễn là bạn chắc cú rằng văn kiện [[Trợ giúp:Phạm vi công cộng|phù hợp với tiêu chuẩn Phạm vi công cộng]], bạn có thể tự tay đưa nó vào ngay! (''Cũng như mọi luật chơi, đó chỉ là những chỉ dẫn cơ bản, nếu bạn thấy có ngoại lệ, cứ hỏi [[Wikisource:Bảo quản viên|một bảo quản viên]] để được giúp'') Nếu văn kiện chưa có trên này, chỉ cần gõ tên nó vào dưới là nó sẽ đưa bạn đến trang sửa đổi để bạn bắt tay vào làm! Nhớ đừng quên thêm {{tl|chưa có đầu đề}} vào đầu trang, rồi bỏ [[:Thể loại:Tác phẩm|thể loại]] vào để mọi người còn kiếm ra nó mà đọc. <inputbox> type=create preload= editintro= width=25 bgcolor=#f0f0ff </inputbox> }} Nếu bạn chẳng nghĩ ra được thứ gì để cải thiện Wikisource, vậy sao không xem thử [[Wikisource:Văn kiện tôn giáo]], [[Wikisource:Chiến tranh]] hay [[Wikisource:Văn kiện theo Quốc gia]] để lấy ý tưởng? Đừng quên đặt những đóng góp của bạn vào các trang đó để mà người khác có thể đọc chúng! </td> <td> {{Infosection|name=<small>Đọc khi nào muốn, đọc cách mình muốn</small>|[[Image:Francesco Hayez 027.jpg|right|150px]]}} </td> </tr> </table> </div> <div class="tabbertab" title="Tham gia sâu hơn"> <table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%" style="font-size: x-small;"> <tr valign="top"> <td> {{Infosection|name=Đến và gặp gỡ mọi người|[[Image:Book of Hours detail.jpg|left|150px]] Nếu bạn đã nhấn tới tab này rồi, thì bạn chắc vẫn muốn bỏ thêm vài giờ để làm quen với thư viện của chúng ta. Nó chưa được hoàn hảo đâu bạn à, đâu đó vẫn còn lỗi chính tả hay văn kiện sắp xếp chưa đúng. Hãy giúp chúng tôi, báo cho chúng tôi biết, hoặc tự mình sửa lấy! Nếu bạn thấy chán và chỉ muốn nhặt cây chổi lên dọn dẹp, thì đây, có nhiều thứ cần phải dọn lắm. [[:Thể loại:Tác phẩm thiếu bản mẫu đầu đề|Tác phẩm thiếu bản mẫu đầu đề]] chẳng hạn là những nơi rất tuyệt để bắt đầu! }} </td> <td> {{Infosection|name=Giúp&nbsp;chúng&nbsp;tôi| * [[Wikisource:Thảo luận|Khu vực thảo luận trung tâm]] * [irc://irc.freenode.net/wikisource Thảo luận IRC] * [[:Thể loại:Bản dịch dang dở|Bản dịch dang dở]] * [[Wikisource:Có thể vi phạm bản quyền|Có thể vi phạm bản quyền]] * [[Wikisource:Đề nghị xóa|Biểu quyết xóa trang]] * [[Special:RecentChanges|Thay đổi gần đây]]}} </td> </tr> </table> </div> </div> </div> [[Thành viên:Tranminh360|Tranminh360]] ([[Thảo luận Thành viên:Tranminh360|thảo luận]]) 05:47, ngày 24 tháng 6 năm 2016 (UTC) == Văn kiện chữ Hán == Về các văn kiện chữ Hán, bạn nên tự dịch ra tiếng Việt nếu có thể bằng bản mẫu {{tl|Translation table/zh}}, xem ví dụ ở trang [[Nam Ông mộng lục]]. Còn nếu chỉ phiên âm Hán-Việt thì nên dùng bản mẫu {{tl|Ruby}}, xem ví dụ ở trang [[Nhập Dược Kính]]. Ngoài ra bạn hãy vào [[Đặc biệt:Tùy chọn#mw-prefsection-gadgets]], kích hoạt tiện ích ''Tải sẵn các bản mẫu hữu ích như đầu đề và thông tin văn kiện'', hệ thống sẽ tự động tải bản mẫu {{tl|đầu đề}} mỗi khi bạn tạo trang mới, khỏi cần chép lại từ trang khác. [[Thành viên:Tranminh360|Tranminh360]] ([[Thảo luận Thành viên:Tranminh360|thảo luận]]) 01:54, ngày 29 tháng 6 năm 2016 (UTC) == [[Tác gia:John Crawfurd]] == Bạn tạo trang Tác gia mà không hề có tác phẩm nào trên Wikisource tiếng Việt, vậy thì bạn tạo trang Tác gia làm gì? [[Thành viên:Tranminh360|Tranminh360]] ([[Thảo luận Thành viên:Tranminh360|thảo luận]]) 05:43, ngày 10 tháng 3 năm 2023 (UTC) :Xin lỗi vì thiếu sót. Do tác giả này có các tác phẩm được upload bên wiki common dạng pdf nên tôi liệt kê và đưa link vào. Tôi chưa có thời gian để chuyển các file pdf thành wiki source. Liệu có thể tạm thời giữ lại tác giả này để tham khảo khi viết bài bên Wikipedia không bạn? – [[Thành viên:Mrfly911|Mrfly911]] ([[Thảo luận Thành viên:Mrfly911|thảo luận]]) 09:40, ngày 10 tháng 3 năm 2023 (UTC) ::Các tác phẩm của tác gia này đều bằng tiếng Anh nên chỉ có thể được lưu trữ ở Wikisource tiếng Anh. Nếu bạn muốn lưu trữ các tác phẩm này ở Wikisource tiếng Việt thì bạn phải dịch chúng sang tiếng Việt, bản dịch sẽ nằm trong không gian tên Biên dịch, ví dụ: [[Biên dịch:Món quà Giáng sinh]]. [[Thành viên:Tranminh360|Tranminh360]] ([[Thảo luận Thành viên:Tranminh360|thảo luận]]) 10:33, ngày 10 tháng 3 năm 2023 (UTC) :::Ồ vâng, cảm ơn bạn. Phiền bạn chỉnh/xóa giúp. Khi nào có thời gian tôi sẽ Việt hóa và tạo không gian Biên dịch. – [[Thành viên:Mrfly911|Mrfly911]] ([[Thảo luận Thành viên:Mrfly911|thảo luận]]) 14:50, ngày 10 tháng 3 năm 2023 (UTC) == [[Bình An Nam chiếu]] == Xin lỗi bạn nhưng việc [[Đặc biệt:Khác/195797|bạn lấy bản dịch tiếng Anh của Geoff Wade rồi dịch ra tiếng Việt]] là vi phạm bản quyền vì bản dịch của Geoff Wade là có bản quyền: ngay [https://epress.nus.edu.sg/msl/reign/yong-le/year-5-month-6-day-1 trang nguồn] đã ghi rõ ''This translation of the Ming Shi-lu, and all commentary text, is copyright © Geoff Wade, 2025. Please make use of this material by browsing the website. Spidering or harvesting of this database without the permission of the copyright holder will be considered a violation of copyright. That being said, if you are interested to use the data here, please reach out to NUS Press.'' Bạn cần dịch trực tiếp từ bản tiếng Trung vì chỉ có bản tiếng Trung thuộc phạm vi công cộng do tác giả đã chết quá 100 năm. [[Thành viên:Tranminh360|Tranminh360]] ([[Thảo luận Thành viên:Tranminh360|thảo luận]]) 10:02, ngày 19 tháng 6 năm 2025 (UTC) :Cảm ơn bạn đã kiểm tra. Tôi sẽ dịch lại theo nguồn tiếng Hán. – [[Thành viên:Mrfly911|Mrfly911]] ([[Thảo luận Thành viên:Mrfly911|thảo luận]]) 10:25, ngày 19 tháng 6 năm 2025 (UTC) 7p3ujf7r6u9t4iz2s1612hqyz8epx8u Bổ An Nam lục dị đồ ký 0 21208 195812 54086 2025-06-19T08:31:40Z Mrfly911 2215 195812 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 補安南錄異圖記 - Bổ An Nam lục dị đồ ký | tác giả = Thôi Trí Viễn | dịch giả = | năm = 882 | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Học giả Thôi Trí Viễn (857-?) (崔致遠 - 최치원 - Choe Chiwon), một người Triều Tiên du học và làm quan thời nhà Đường, đã viết sách "Bổ An Nam lục dị đồ ký" (補安南錄異圖記) vào năm 882. Thôi Trí Viễn có quan hệ với quan đô hộ phủ An Nam là Cao Biền. Sách "Bổ An Nam lục dị đồ ký" của ông viết về các vấn đề địa lý, phong tục ở An Nam đô hộ phủ. Đây có lẽ là quyển sách cổ nhất mà người Triều Tiên viết về Việt Nam. }} {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 交趾四封,圖經詳矣。然而管多生獠,境邇諸蕃,略採俚譚,用標方誌。安南之為府也,巡屬一十二郡(峰、驩、演、愛、陸、長郡、諒、武定、武安、蘇、茂、虞林),羈縻五十八州,府城東至南溟四百餘里,有山橫亙,千里而遙,邃穴深岩,為獠窟宅。蠻蜑之衆,六種星居。鄰諸蕃二十一區,管生獠二十一輩。水之西南則通闍婆、大食之國,陸之西北則接女國、烏蠻之路,曾無亭堠,莫審塗程。跂履者計日指期,沉浮者占風定信。二十一國雞犬傳聲,服食所宜,大較相類。管內生獠,多號山蹄,或被髮鏤身,或穿胸鑿齒,詭音嘲哳,奸態睢盱。其中尤異者,臥使頭飛,飲於鼻受,豹皮裹體,龜殼蔽形。搗木絮而為裘(獠子多衣木皮,熟搗有如纖纊),編竹苫而作翅。生養則夫妻代患,長成則父子爭雄。縱時有傳譯可通,亦俗無桑蠶之業。唯織雜彩狹布,多披短襟交衫。或有不縫而衣,不粒而食,死喪無服,嫁娶不媒,戰有排刀,病無藥餌。固恃險阻,各稱酋豪。遠自漢朝,迄於隋季,薦興邊患,頗役遐征。馬將軍標柱歸時,寸分地界;史總管倒碑過後,略靜海隅。洎咸通初,驃信挺災,元戎喪律。鴟嘯於跕鳶之地,豕豗於束馬之塗。摧兇欲快於摏喉,拯溺唯思於援手。先帝以今淮海太尉燕公,威宣大漠,政洽上都(時公防禦秦城,剗平醜虜,才歸輦下,出鎮安南),乃請出鎮龍編,立身豹略,剗雕題而卵碎,活黔首以肌豐。複壁壘於一麾,拔封疆於萬里。有蠹皆削,無冤不伸(朱道古稔奸於外,杜存淩恣虐於內,皆為安南巨患。公乃誅滅無遺,故禇令公遂良竄歿日南,子孫彫零,公時表洗雪)。然後使電母雷公,鑿外域朝天之路;山靈水若,偃大洋沃日之波(安南經岝口天威,神功所開,播在遠邇)。遂得絕蠻諜之北窺,紆漢軍之南戍。乃鳳傳徵詔,鷁泛歸程,至於洞獠海蠻,莫不醉恩飽義,遠投聖闕,請建生祠。則知善政所行,殊方可誘。既見馬如羊而不取,縱令蟻若象而何虞。足以驗四夷之時或不賓,九牧之任不得所也。有柔遠軍從事吳降嘗集是圖,名曰《錄異》,敘云:久觀遐蕃,目擊殊形,手題本事。然則信以傳信,斯焉取斯。既閱前詞,退而歎曰:愚之所以為異者,其諸異乎人之所異,曰六合之內,何物則棄。至如鼠肉萬斤,鰕鬂一丈,既知南北所產,永釋古今之疑。則彼獸性群分,鳥聲類聚,誠不足異也。頃太尉燕公受三顧恩,用六奇計,使獷悍歸服,邊陲晏然。今聖上省方,蒙王獻款,不敢弄吠堯之口,永能除猾夏之心。皆由燕公收交州,鎮蜀邵,威振於奔魑走魅,功成於金壘湯池。所謂藴先見之能,察未來之事,呼吸而陰陽不測,指蹤而神鬼交馳。實為天工,人其代之,斯實可為異矣。聊補所闕,敢貽將來。時翠華幸蜀之三載也。 </poem> | <poem> Giao Chỉ tứ phong , đồ kinh tường hĩ . nhiên nhi quản đa sinh lão , cảnh nhĩ chư phiền , lược thải lý đàm , dụng tiêu phương chí. An Nam chi vi phủ dã, tuần thuộc thập nhị quận (Phong, Hoan, Diễn, Ái, Lục, Trường Quận, Lạng, Vũ Định, Vũ An, Tô, Mậu, Ngu Lâm), ki mi ngũ thập bát châu, phủ thành đông chí Nam Minh tứ bách dư lý, hữu sơn hoành ngân, thiên lý nhi diêu, túy huyệt thâm nham, vi Lạo quật trạch. Man đản chi chúng , lục chủng tinh cư . lân chư phiền nhị thập nhất khu , quản sinh lão nhị thập nhất bối . Thủy chi tây nam tắc thông đồ bà, đại thực chi quốc , lục chi tây bắc tắc tiếp nữ quốc 、 ô man chi lộ , tằng vô đình hậu , mạc thẩm đồ trình . kỳ lý giả kế nhật chỉ kỳ , trầm phù giả chiêm phong định tín, Nhị thập nhất quốc kê khuyển truyện thanh , phục thực sở nghi , đại giác tương loại . quản nội sinh lão , đa hào sơn đề , hoặc bị phát lũ thân , hoặc xuyên hung tạc xỉ , quỷ âm trào triết , gian thái tuy hu. Kỳ trung vưu dị giả , ngọa sử đầu phi , ẩm vu tị thụ , báo bì khỏa thể , quy xác tế hình . đảo mộc nhứ nhi vi cừu ( lão tử đa y mộc bì , thục đảo hữu như tiêm khoáng ), biên trúc thiêm nhi tác sí . sinh dưỡng tắc phu thê đại hoạn , trường thành tắc phụ tử tranh hùng . Túng thì hữu truyện dịch khả thông , diệc tục vô tang tàm chi nghiệp . duy chức tạp thải hiệp bố , đa phi đoản khâm giao sam . hoặc hữu bất phùng nhi y , bất lạp nhi thực , tử tang vô phục , giá thú bất môi , chiến hữu bài đao , bệnh vô dược nhị. cố thị hiểm trở , các xưng tù hào . viễn tự hán triêu , hất vu tùy quý , tiến hưng biên hoạn , pha dịch hà chinh . mã tương quân tiêu trụ quy thì , thốn phân địa giới ; sử tổng quản đảo bi quá hậu , lược tĩnh hải ngung. Kịp hàm thông sơ , phiếu tín đĩnh tai , nguyên nhung tang luật . si khiếu vu thiếp diên chi địa , thỉ hôi vu thúc mã chi đồ . tồi hung dục khoái vu thung hầu , chửng nịch duy tư vu viên thủ. Tiên đế dĩ kim hoài hải thái úy yến công , uy tuyên đại mạc , chính hiệp thượng đô ( thì công phòng ngữ tần thành , sản bình xú lỗ , tài quy liễn hạ , xuất trấn an nam ) , nãi thỉnh xuất trấn long biên , lập thân báo lược , sản điêu đề nhi noãn toái , hoạt kiềm thủ dĩ cơ phong . phức bích lũy vu nhất huy , bạt phong cương vu vạn lý . hữu đố giai tước , vô oan bất thân ( chu đạo cổ nhẫm gian vu ngoại , đỗ tồn lăng tứ ngược vu nội , giai vi an nam cự hoạn . công nãi tru diệt vô di , cố 禇 lệnh công toại lương thoán một nhật nam , tử tôn điêu linh , công thì biểu tẩy tuyết). Nhiên hậu sử điện mẫu lôi công , tạc ngoại vực triêu thiên chi lộ ; sơn linh thủy nhược , yển đại dương ốc nhật chi ba ( an nam kinh 岝 khẩu thiên uy , thần công sở khai , bá tại viễn nhĩ ) . toại đắc tuyệt man điệp chi bắc khuy , hu hán quân chi nam thú . Nãi phượng truyện trưng chiếu , nghịch phiếm quy trình , chí vu động lão hải man , mạc bất túy ân bão nghĩa , viễn đầu thánh khuyết , thỉnh kiến sinh từ . tắc tri thiện chính sở hành , thù phương khả dụ . ký kiến mã như dương nhi bất thủ , túng lệnh nghĩ nhược tượng nhi hà ngu . túc dĩ nghiệm tứ di chi thì hoặc bất tân , cửu mục chi nhâm bất đắc sở dã. hữu nhu viễn quân tòng sự ngô hàng thường tập thị đồ , danh viết 《 lục dị 》 , tự vân : cửu quan hà phiền , mục kích thù hình , thủ đề bản sự . nhiên tắc tín dĩ truyện tín , tư yên thủ tư . ký duyệt tiền từ , thối nhi thán viết : ngu chi sở dĩ vi dị giả , kỳ chư dị hồ nhân chi sở dị , viết lục hợp chi nội , hà vật tắc khí . chí như thử nhục vạn cân , hà 鬂 nhất trượng , ký tri nam bắc sở sản , vĩnh thích cổ kim chi nghi . tắc bỉ thú tính quần phân , điểu thanh loại tụ , thành bất túc dị dã . khoảnh thái úy yến công thụ tam cố ân , dụng lục kỳ kế , sử quánh hãn quy phục , biên thùy yến nhiên . kim thánh thượng tỉnh phương , mông vương hiến khoản , bất cảm lộng phệ nghiêu chi khẩu , vĩnh năng trừ hoạt hạ chi tâm . giai do yến công thu giao châu , trấn thục thiệu , uy chấn vu bôn si tẩu mị , công thành vu kim lũy thang trì . sở vị 藴 tiên kiến chi năng , sát vị lai chi sự , hô hấp nhi âm dương bất trắc , chỉ tung nhi thần quỷ giao trì . thực vi thiên công , nhân kỳ đại chi , tư thực khả vi dị hĩ . liêu bổ sở khuyết , cảm di tương lai . thì thúy hoa hạnh thục chi tam tái dã . </poem> |} ==Dịch nghĩa== ===Ghi chép bổ sung về những hình ảnh kỳ lạ ở An Nam=== Vùng Giao Chỉ bốn phía đã được ghi chép rõ ràng trong các sách địa lý. Tuy nhiên, nơi đây cai quản nhiều người Lạo 䝤 sinh sống, lại giáp ranh với các nước phiên bang, nên có lược ghi lại những lời truyền miệng dân gian để bổ sung vào sách địa chí. <references /> ---- ;Nguồn * 本文寫於唐僖宗中和二年(882年),收錄在崔致遠《桂苑筆耕集》卷十六。 Bản văn tả vu Đường Hi Tông trung hòa nhị niên 882 niên ), thu lục tại Thôi Trí Viễn 《 quế uyển bút canh tập 》 quyển thập lục . {{PD-old}} [[Thể loại:Tác giả Triều Tiên]] [[Thể loại:Tác giả thời Đường]] [[zh:補安南錄異圖記]] tqw5arhaplqy6fe54wx571ho1nvjddz 195814 195812 2025-06-19T08:36:45Z Mrfly911 2215 /* Ghi chép bổ sung về những hình ảnh kỳ lạ ở An Nam */ 195814 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 補安南錄異圖記 - Bổ An Nam lục dị đồ ký | tác giả = Thôi Trí Viễn | dịch giả = | năm = 882 | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Học giả Thôi Trí Viễn (857-?) (崔致遠 - 최치원 - Choe Chiwon), một người Triều Tiên du học và làm quan thời nhà Đường, đã viết sách "Bổ An Nam lục dị đồ ký" (補安南錄異圖記) vào năm 882. Thôi Trí Viễn có quan hệ với quan đô hộ phủ An Nam là Cao Biền. Sách "Bổ An Nam lục dị đồ ký" của ông viết về các vấn đề địa lý, phong tục ở An Nam đô hộ phủ. Đây có lẽ là quyển sách cổ nhất mà người Triều Tiên viết về Việt Nam. }} {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 交趾四封,圖經詳矣。然而管多生獠,境邇諸蕃,略採俚譚,用標方誌。安南之為府也,巡屬一十二郡(峰、驩、演、愛、陸、長郡、諒、武定、武安、蘇、茂、虞林),羈縻五十八州,府城東至南溟四百餘里,有山橫亙,千里而遙,邃穴深岩,為獠窟宅。蠻蜑之衆,六種星居。鄰諸蕃二十一區,管生獠二十一輩。水之西南則通闍婆、大食之國,陸之西北則接女國、烏蠻之路,曾無亭堠,莫審塗程。跂履者計日指期,沉浮者占風定信。二十一國雞犬傳聲,服食所宜,大較相類。管內生獠,多號山蹄,或被髮鏤身,或穿胸鑿齒,詭音嘲哳,奸態睢盱。其中尤異者,臥使頭飛,飲於鼻受,豹皮裹體,龜殼蔽形。搗木絮而為裘(獠子多衣木皮,熟搗有如纖纊),編竹苫而作翅。生養則夫妻代患,長成則父子爭雄。縱時有傳譯可通,亦俗無桑蠶之業。唯織雜彩狹布,多披短襟交衫。或有不縫而衣,不粒而食,死喪無服,嫁娶不媒,戰有排刀,病無藥餌。固恃險阻,各稱酋豪。遠自漢朝,迄於隋季,薦興邊患,頗役遐征。馬將軍標柱歸時,寸分地界;史總管倒碑過後,略靜海隅。洎咸通初,驃信挺災,元戎喪律。鴟嘯於跕鳶之地,豕豗於束馬之塗。摧兇欲快於摏喉,拯溺唯思於援手。先帝以今淮海太尉燕公,威宣大漠,政洽上都(時公防禦秦城,剗平醜虜,才歸輦下,出鎮安南),乃請出鎮龍編,立身豹略,剗雕題而卵碎,活黔首以肌豐。複壁壘於一麾,拔封疆於萬里。有蠹皆削,無冤不伸(朱道古稔奸於外,杜存淩恣虐於內,皆為安南巨患。公乃誅滅無遺,故禇令公遂良竄歿日南,子孫彫零,公時表洗雪)。然後使電母雷公,鑿外域朝天之路;山靈水若,偃大洋沃日之波(安南經岝口天威,神功所開,播在遠邇)。遂得絕蠻諜之北窺,紆漢軍之南戍。乃鳳傳徵詔,鷁泛歸程,至於洞獠海蠻,莫不醉恩飽義,遠投聖闕,請建生祠。則知善政所行,殊方可誘。既見馬如羊而不取,縱令蟻若象而何虞。足以驗四夷之時或不賓,九牧之任不得所也。有柔遠軍從事吳降嘗集是圖,名曰《錄異》,敘云:久觀遐蕃,目擊殊形,手題本事。然則信以傳信,斯焉取斯。既閱前詞,退而歎曰:愚之所以為異者,其諸異乎人之所異,曰六合之內,何物則棄。至如鼠肉萬斤,鰕鬂一丈,既知南北所產,永釋古今之疑。則彼獸性群分,鳥聲類聚,誠不足異也。頃太尉燕公受三顧恩,用六奇計,使獷悍歸服,邊陲晏然。今聖上省方,蒙王獻款,不敢弄吠堯之口,永能除猾夏之心。皆由燕公收交州,鎮蜀邵,威振於奔魑走魅,功成於金壘湯池。所謂藴先見之能,察未來之事,呼吸而陰陽不測,指蹤而神鬼交馳。實為天工,人其代之,斯實可為異矣。聊補所闕,敢貽將來。時翠華幸蜀之三載也。 </poem> | <poem> Giao Chỉ tứ phong , đồ kinh tường hĩ . nhiên nhi quản đa sinh lão , cảnh nhĩ chư phiền , lược thải lý đàm , dụng tiêu phương chí. An Nam chi vi phủ dã, tuần thuộc thập nhị quận (Phong, Hoan, Diễn, Ái, Lục, Trường Quận, Lạng, Vũ Định, Vũ An, Tô, Mậu, Ngu Lâm), ki mi ngũ thập bát châu, phủ thành đông chí Nam Minh tứ bách dư lý, hữu sơn hoành ngân, thiên lý nhi diêu, túy huyệt thâm nham, vi Lạo quật trạch. Man đản chi chúng , lục chủng tinh cư . lân chư phiền nhị thập nhất khu , quản sinh lão nhị thập nhất bối . Thủy chi tây nam tắc thông đồ bà, đại thực chi quốc , lục chi tây bắc tắc tiếp nữ quốc 、 ô man chi lộ , tằng vô đình hậu , mạc thẩm đồ trình . kỳ lý giả kế nhật chỉ kỳ , trầm phù giả chiêm phong định tín, Nhị thập nhất quốc kê khuyển truyện thanh , phục thực sở nghi , đại giác tương loại . quản nội sinh lão , đa hào sơn đề , hoặc bị phát lũ thân , hoặc xuyên hung tạc xỉ , quỷ âm trào triết , gian thái tuy hu. Kỳ trung vưu dị giả , ngọa sử đầu phi , ẩm vu tị thụ , báo bì khỏa thể , quy xác tế hình . đảo mộc nhứ nhi vi cừu ( lão tử đa y mộc bì , thục đảo hữu như tiêm khoáng ), biên trúc thiêm nhi tác sí . sinh dưỡng tắc phu thê đại hoạn , trường thành tắc phụ tử tranh hùng . Túng thì hữu truyện dịch khả thông , diệc tục vô tang tàm chi nghiệp . duy chức tạp thải hiệp bố , đa phi đoản khâm giao sam . hoặc hữu bất phùng nhi y , bất lạp nhi thực , tử tang vô phục , giá thú bất môi , chiến hữu bài đao , bệnh vô dược nhị. cố thị hiểm trở , các xưng tù hào . viễn tự hán triêu , hất vu tùy quý , tiến hưng biên hoạn , pha dịch hà chinh . mã tương quân tiêu trụ quy thì , thốn phân địa giới ; sử tổng quản đảo bi quá hậu , lược tĩnh hải ngung. Kịp hàm thông sơ , phiếu tín đĩnh tai , nguyên nhung tang luật . si khiếu vu thiếp diên chi địa , thỉ hôi vu thúc mã chi đồ . tồi hung dục khoái vu thung hầu , chửng nịch duy tư vu viên thủ. Tiên đế dĩ kim hoài hải thái úy yến công , uy tuyên đại mạc , chính hiệp thượng đô ( thì công phòng ngữ tần thành , sản bình xú lỗ , tài quy liễn hạ , xuất trấn an nam ) , nãi thỉnh xuất trấn long biên , lập thân báo lược , sản điêu đề nhi noãn toái , hoạt kiềm thủ dĩ cơ phong . phức bích lũy vu nhất huy , bạt phong cương vu vạn lý . hữu đố giai tước , vô oan bất thân ( chu đạo cổ nhẫm gian vu ngoại , đỗ tồn lăng tứ ngược vu nội , giai vi an nam cự hoạn . công nãi tru diệt vô di , cố 禇 lệnh công toại lương thoán một nhật nam , tử tôn điêu linh , công thì biểu tẩy tuyết). Nhiên hậu sử điện mẫu lôi công , tạc ngoại vực triêu thiên chi lộ ; sơn linh thủy nhược , yển đại dương ốc nhật chi ba ( an nam kinh 岝 khẩu thiên uy , thần công sở khai , bá tại viễn nhĩ ) . toại đắc tuyệt man điệp chi bắc khuy , hu hán quân chi nam thú . Nãi phượng truyện trưng chiếu , nghịch phiếm quy trình , chí vu động lão hải man , mạc bất túy ân bão nghĩa , viễn đầu thánh khuyết , thỉnh kiến sinh từ . tắc tri thiện chính sở hành , thù phương khả dụ . ký kiến mã như dương nhi bất thủ , túng lệnh nghĩ nhược tượng nhi hà ngu . túc dĩ nghiệm tứ di chi thì hoặc bất tân , cửu mục chi nhâm bất đắc sở dã. hữu nhu viễn quân tòng sự ngô hàng thường tập thị đồ , danh viết 《 lục dị 》 , tự vân : cửu quan hà phiền , mục kích thù hình , thủ đề bản sự . nhiên tắc tín dĩ truyện tín , tư yên thủ tư . ký duyệt tiền từ , thối nhi thán viết : ngu chi sở dĩ vi dị giả , kỳ chư dị hồ nhân chi sở dị , viết lục hợp chi nội , hà vật tắc khí . chí như thử nhục vạn cân , hà 鬂 nhất trượng , ký tri nam bắc sở sản , vĩnh thích cổ kim chi nghi . tắc bỉ thú tính quần phân , điểu thanh loại tụ , thành bất túc dị dã . khoảnh thái úy yến công thụ tam cố ân , dụng lục kỳ kế , sử quánh hãn quy phục , biên thùy yến nhiên . kim thánh thượng tỉnh phương , mông vương hiến khoản , bất cảm lộng phệ nghiêu chi khẩu , vĩnh năng trừ hoạt hạ chi tâm . giai do yến công thu giao châu , trấn thục thiệu , uy chấn vu bôn si tẩu mị , công thành vu kim lũy thang trì . sở vị 藴 tiên kiến chi năng , sát vị lai chi sự , hô hấp nhi âm dương bất trắc , chỉ tung nhi thần quỷ giao trì . thực vi thiên công , nhân kỳ đại chi , tư thực khả vi dị hĩ . liêu bổ sở khuyết , cảm di tương lai . thì thúy hoa hạnh thục chi tam tái dã . </poem> |} ==Dịch nghĩa== ===Ghi chép bổ sung về những hình ảnh kỳ lạ ở An Nam=== Vùng Giao Chỉ bốn phía đã được ghi chép rõ ràng trong các sách địa lý. Tuy nhiên, nơi đây cai quản nhiều người Lạo 䝤 sinh sống<ref>生䝤 (生獠): Sinh liêu- chỉ dân cư không sống ở các khu thành (thị dân). 獠 Liêu là từ vốn chỉ các tộc người phân bố ở khu vực phía Nam Trung Quốc như Quảng Đông, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu.</ref>, lại giáp ranh với các nước phiên bang<ref>諸蕃 (诸蕃): Chư phiên - chỉ các bộ lạc sống rải rác khu vực biên giới</ref>, nên có lược ghi lại những lời truyền miệng dân gian để bổ sung vào sách địa chí. An Nam là phủ (An Nam đô hộ phủ), có 12 quận (Phong, Hoan, Diễn, Ái, Lục, Trường Quận, Kinh, Vũ Định, Vũ An, Tô, Mậu, Ngu Lâm), kiểm soát 58 châu. Từ phía Đông của phủ này đến bể Nam là hơn 400 dặm, có núi non nằm ngang, ngàn dặm xa xôi, hang sâu vách thẳm, là nơi cư ngụ của các tộc người. Cộng đồng người có 6 chủng sống rải rác. Các bộ tộc vùng biên lân cận có 21 khu. Vùng nước phía Tây Nam thông đến nước Xà Bà<ref>Xà Bà (闍婆): Nói tắt của tên Xà Bà Bà Đạt (Saba Badal) (闍婆婆達), là tên một quốc đảo ngày nay thuộc nước Indonesia, còn có tên là Xà Bà Đạt Savadal (闍婆達).</ref> và Đại Thực<ref>Đại Thực (大食) : thường dùng chỉ đế chế Saracen (trải dài từ Syria đến Ả Rập Xe út ngày nay), tuy nhiên ở đây dùng chỉ 1 đảo quốc ở biển Đông. Tân Đường Thư (新唐書) cuốn 222 (訶陵) phần 2, Nam Man liệt truyện hạ (南蠻列傳下) có ghi: 〔大食君聞之 齎金一囊置其郊 行者輒避〕 Đại Thực quân văn chi tư kim nhất nang trí kỳ giao hành giả triếp tị Tống sử cuốn 489, phần Ngoại quốc liệt truyện (外國列傳) có ghi từ biển Xa bà đi thuyền buồm 5 ngày đến nước Đại Thực 〔汎海五日至大食國〕</ref>. Trên đất liền, hướng Tây Bắc tiếp giáp Nữ Quốc<ref>Nữ quốc ý chỉ một nước do phụ nữ làm vua, đó là tên một bộ lạc ở miền Tây Nam thời Tùy và Dường, được cho là 1 nhánh của người Khương (羌族)</ref>, đường Ô Man, chưa có vọng gác nên chưa biết rõ đường đi lối lại. Người đi đường bộ thì thì đếm ngày tính thời gian, người đi đường thuyền thì đoán gió hẹn nhau. {{Chú thích cuối trang}} ---- ;Nguồn * 本文寫於唐僖宗中和二年(882年),收錄在崔致遠《桂苑筆耕集》卷十六。 Bản văn tả vu Đường Hi Tông trung hòa nhị niên 882 niên ), thu lục tại Thôi Trí Viễn 《 quế uyển bút canh tập 》 quyển thập lục . {{PD-old}} [[Thể loại:Tác giả Triều Tiên]] [[Thể loại:Tác giả thời Đường]] [[zh:補安南錄異圖記]] 602eezmm0lxeqvn5bifu272z1g6nlq5 195817 195814 2025-06-19T08:44:16Z Mrfly911 2215 /* Ghi chép bổ sung về những hình ảnh kỳ lạ ở An Nam */ 195817 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 補安南錄異圖記 - Bổ An Nam lục dị đồ ký | tác giả = Thôi Trí Viễn | dịch giả = | năm = 882 | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Học giả Thôi Trí Viễn (857-?) (崔致遠 - 최치원 - Choe Chiwon), một người Triều Tiên du học và làm quan thời nhà Đường, đã viết sách "Bổ An Nam lục dị đồ ký" (補安南錄異圖記) vào năm 882. Thôi Trí Viễn có quan hệ với quan đô hộ phủ An Nam là Cao Biền. Sách "Bổ An Nam lục dị đồ ký" của ông viết về các vấn đề địa lý, phong tục ở An Nam đô hộ phủ. Đây có lẽ là quyển sách cổ nhất mà người Triều Tiên viết về Việt Nam. }} {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 交趾四封,圖經詳矣。然而管多生獠,境邇諸蕃,略採俚譚,用標方誌。安南之為府也,巡屬一十二郡(峰、驩、演、愛、陸、長郡、諒、武定、武安、蘇、茂、虞林),羈縻五十八州,府城東至南溟四百餘里,有山橫亙,千里而遙,邃穴深岩,為獠窟宅。蠻蜑之衆,六種星居。鄰諸蕃二十一區,管生獠二十一輩。水之西南則通闍婆、大食之國,陸之西北則接女國、烏蠻之路,曾無亭堠,莫審塗程。跂履者計日指期,沉浮者占風定信。二十一國雞犬傳聲,服食所宜,大較相類。管內生獠,多號山蹄,或被髮鏤身,或穿胸鑿齒,詭音嘲哳,奸態睢盱。其中尤異者,臥使頭飛,飲於鼻受,豹皮裹體,龜殼蔽形。搗木絮而為裘(獠子多衣木皮,熟搗有如纖纊),編竹苫而作翅。生養則夫妻代患,長成則父子爭雄。縱時有傳譯可通,亦俗無桑蠶之業。唯織雜彩狹布,多披短襟交衫。或有不縫而衣,不粒而食,死喪無服,嫁娶不媒,戰有排刀,病無藥餌。固恃險阻,各稱酋豪。遠自漢朝,迄於隋季,薦興邊患,頗役遐征。馬將軍標柱歸時,寸分地界;史總管倒碑過後,略靜海隅。洎咸通初,驃信挺災,元戎喪律。鴟嘯於跕鳶之地,豕豗於束馬之塗。摧兇欲快於摏喉,拯溺唯思於援手。先帝以今淮海太尉燕公,威宣大漠,政洽上都(時公防禦秦城,剗平醜虜,才歸輦下,出鎮安南),乃請出鎮龍編,立身豹略,剗雕題而卵碎,活黔首以肌豐。複壁壘於一麾,拔封疆於萬里。有蠹皆削,無冤不伸(朱道古稔奸於外,杜存淩恣虐於內,皆為安南巨患。公乃誅滅無遺,故禇令公遂良竄歿日南,子孫彫零,公時表洗雪)。然後使電母雷公,鑿外域朝天之路;山靈水若,偃大洋沃日之波(安南經岝口天威,神功所開,播在遠邇)。遂得絕蠻諜之北窺,紆漢軍之南戍。乃鳳傳徵詔,鷁泛歸程,至於洞獠海蠻,莫不醉恩飽義,遠投聖闕,請建生祠。則知善政所行,殊方可誘。既見馬如羊而不取,縱令蟻若象而何虞。足以驗四夷之時或不賓,九牧之任不得所也。有柔遠軍從事吳降嘗集是圖,名曰《錄異》,敘云:久觀遐蕃,目擊殊形,手題本事。然則信以傳信,斯焉取斯。既閱前詞,退而歎曰:愚之所以為異者,其諸異乎人之所異,曰六合之內,何物則棄。至如鼠肉萬斤,鰕鬂一丈,既知南北所產,永釋古今之疑。則彼獸性群分,鳥聲類聚,誠不足異也。頃太尉燕公受三顧恩,用六奇計,使獷悍歸服,邊陲晏然。今聖上省方,蒙王獻款,不敢弄吠堯之口,永能除猾夏之心。皆由燕公收交州,鎮蜀邵,威振於奔魑走魅,功成於金壘湯池。所謂藴先見之能,察未來之事,呼吸而陰陽不測,指蹤而神鬼交馳。實為天工,人其代之,斯實可為異矣。聊補所闕,敢貽將來。時翠華幸蜀之三載也。 </poem> | <poem> Giao Chỉ tứ phong , đồ kinh tường hĩ . nhiên nhi quản đa sinh lão , cảnh nhĩ chư phiền , lược thải lý đàm , dụng tiêu phương chí. An Nam chi vi phủ dã, tuần thuộc thập nhị quận (Phong, Hoan, Diễn, Ái, Lục, Trường Quận, Lạng, Vũ Định, Vũ An, Tô, Mậu, Ngu Lâm), ki mi ngũ thập bát châu, phủ thành đông chí Nam Minh tứ bách dư lý, hữu sơn hoành ngân, thiên lý nhi diêu, túy huyệt thâm nham, vi Lạo quật trạch. Man đản chi chúng , lục chủng tinh cư . lân chư phiền nhị thập nhất khu , quản sinh lão nhị thập nhất bối . Thủy chi tây nam tắc thông đồ bà, đại thực chi quốc , lục chi tây bắc tắc tiếp nữ quốc 、 ô man chi lộ , tằng vô đình hậu , mạc thẩm đồ trình . kỳ lý giả kế nhật chỉ kỳ , trầm phù giả chiêm phong định tín, Nhị thập nhất quốc kê khuyển truyện thanh , phục thực sở nghi , đại giác tương loại . quản nội sinh lão , đa hào sơn đề , hoặc bị phát lũ thân , hoặc xuyên hung tạc xỉ , quỷ âm trào triết , gian thái tuy hu. Kỳ trung vưu dị giả , ngọa sử đầu phi , ẩm vu tị thụ , báo bì khỏa thể , quy xác tế hình . đảo mộc nhứ nhi vi cừu ( lão tử đa y mộc bì , thục đảo hữu như tiêm khoáng ), biên trúc thiêm nhi tác sí . sinh dưỡng tắc phu thê đại hoạn , trường thành tắc phụ tử tranh hùng . Túng thì hữu truyện dịch khả thông , diệc tục vô tang tàm chi nghiệp . duy chức tạp thải hiệp bố , đa phi đoản khâm giao sam . hoặc hữu bất phùng nhi y , bất lạp nhi thực , tử tang vô phục , giá thú bất môi , chiến hữu bài đao , bệnh vô dược nhị. cố thị hiểm trở , các xưng tù hào . viễn tự hán triêu , hất vu tùy quý , tiến hưng biên hoạn , pha dịch hà chinh . mã tương quân tiêu trụ quy thì , thốn phân địa giới ; sử tổng quản đảo bi quá hậu , lược tĩnh hải ngung. Kịp hàm thông sơ , phiếu tín đĩnh tai , nguyên nhung tang luật . si khiếu vu thiếp diên chi địa , thỉ hôi vu thúc mã chi đồ . tồi hung dục khoái vu thung hầu , chửng nịch duy tư vu viên thủ. Tiên đế dĩ kim hoài hải thái úy yến công , uy tuyên đại mạc , chính hiệp thượng đô ( thì công phòng ngữ tần thành , sản bình xú lỗ , tài quy liễn hạ , xuất trấn an nam ) , nãi thỉnh xuất trấn long biên , lập thân báo lược , sản điêu đề nhi noãn toái , hoạt kiềm thủ dĩ cơ phong . phức bích lũy vu nhất huy , bạt phong cương vu vạn lý . hữu đố giai tước , vô oan bất thân ( chu đạo cổ nhẫm gian vu ngoại , đỗ tồn lăng tứ ngược vu nội , giai vi an nam cự hoạn . công nãi tru diệt vô di , cố 禇 lệnh công toại lương thoán một nhật nam , tử tôn điêu linh , công thì biểu tẩy tuyết). Nhiên hậu sử điện mẫu lôi công , tạc ngoại vực triêu thiên chi lộ ; sơn linh thủy nhược , yển đại dương ốc nhật chi ba ( an nam kinh 岝 khẩu thiên uy , thần công sở khai , bá tại viễn nhĩ ) . toại đắc tuyệt man điệp chi bắc khuy , hu hán quân chi nam thú . Nãi phượng truyện trưng chiếu , nghịch phiếm quy trình , chí vu động lão hải man , mạc bất túy ân bão nghĩa , viễn đầu thánh khuyết , thỉnh kiến sinh từ . tắc tri thiện chính sở hành , thù phương khả dụ . ký kiến mã như dương nhi bất thủ , túng lệnh nghĩ nhược tượng nhi hà ngu . túc dĩ nghiệm tứ di chi thì hoặc bất tân , cửu mục chi nhâm bất đắc sở dã. hữu nhu viễn quân tòng sự ngô hàng thường tập thị đồ , danh viết 《 lục dị 》 , tự vân : cửu quan hà phiền , mục kích thù hình , thủ đề bản sự . nhiên tắc tín dĩ truyện tín , tư yên thủ tư . ký duyệt tiền từ , thối nhi thán viết : ngu chi sở dĩ vi dị giả , kỳ chư dị hồ nhân chi sở dị , viết lục hợp chi nội , hà vật tắc khí . chí như thử nhục vạn cân , hà 鬂 nhất trượng , ký tri nam bắc sở sản , vĩnh thích cổ kim chi nghi . tắc bỉ thú tính quần phân , điểu thanh loại tụ , thành bất túc dị dã . khoảnh thái úy yến công thụ tam cố ân , dụng lục kỳ kế , sử quánh hãn quy phục , biên thùy yến nhiên . kim thánh thượng tỉnh phương , mông vương hiến khoản , bất cảm lộng phệ nghiêu chi khẩu , vĩnh năng trừ hoạt hạ chi tâm . giai do yến công thu giao châu , trấn thục thiệu , uy chấn vu bôn si tẩu mị , công thành vu kim lũy thang trì . sở vị 藴 tiên kiến chi năng , sát vị lai chi sự , hô hấp nhi âm dương bất trắc , chỉ tung nhi thần quỷ giao trì . thực vi thiên công , nhân kỳ đại chi , tư thực khả vi dị hĩ . liêu bổ sở khuyết , cảm di tương lai . thì thúy hoa hạnh thục chi tam tái dã . </poem> |} ==Dịch nghĩa== ===Ghi chép bổ sung về những hình ảnh kỳ lạ ở An Nam=== Vùng Giao Chỉ bốn phía đã được ghi chép rõ ràng trong các sách địa lý. Tuy nhiên, nơi đây cai quản nhiều người Lạo 䝤 sinh sống<ref>生䝤 (生獠): Sinh liêu- chỉ dân cư không sống ở các khu thành (thị dân). 獠 Liêu là từ vốn chỉ các tộc người phân bố ở khu vực phía Nam Trung Quốc như Quảng Đông, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu.</ref>, lại giáp ranh với các nước phiên bang<ref>諸蕃 (诸蕃): Chư phiên - chỉ các bộ lạc sống rải rác khu vực biên giới</ref>, nên có lược ghi lại những lời truyền miệng dân gian để bổ sung vào sách địa chí. An Nam là phủ (An Nam đô hộ phủ), có 12 quận (Phong, Hoan, Diễn, Ái, Lục, Trường Quận, Kinh, Vũ Định, Vũ An, Tô, Mậu, Ngu Lâm), kiểm soát 58 châu. Từ phía Đông của phủ này đến bể Nam là hơn 400 dặm, có núi non nằm ngang, ngàn dặm xa xôi, hang sâu vách thẳm, là nơi cư ngụ của các tộc người. Cộng đồng người có 6 chủng sống rải rác. Các bộ tộc vùng biên lân cận có 21 khu. Vùng nước phía Tây Nam thông đến nước Xà Bà<ref>Xà Bà (闍婆): Nói tắt của tên Xà Bà Bà Đạt (Saba Badal) (闍婆婆達), là tên một quốc đảo ngày nay thuộc nước Indonesia, còn có tên là Xà Bà Đạt Savadal (闍婆達).</ref> và Đại Thực<ref>Đại Thực (大食) : thường dùng chỉ đế chế Saracen (trải dài từ Syria đến Ả Rập Xe út ngày nay), tuy nhiên ở đây dùng chỉ 1 đảo quốc ở biển Đông. Tân Đường Thư (新唐書) cuốn 222 (訶陵) phần 2, Nam Man liệt truyện hạ (南蠻列傳下) có ghi: 〔大食君聞之 齎金一囊置其郊 行者輒避〕 Đại Thực quân văn chi tư kim nhất nang trí kỳ giao hành giả triếp tị Tống sử cuốn 489, phần Ngoại quốc liệt truyện (外國列傳) có ghi từ biển Xa bà đi thuyền buồm 5 ngày đến nước Đại Thực 〔汎海五日至大食國〕</ref>. Trên đất liền, hướng Tây Bắc tiếp giáp Nữ Quốc<ref>Nữ quốc ý chỉ một nước do phụ nữ làm vua, đó là tên một bộ lạc ở miền Tây Nam thời Tùy và Dường, được cho là 1 nhánh của người Khương (羌族)</ref>, đường Ô Man, chưa có vọng gác nên chưa biết rõ đường đi lối lại. Người đi đường bộ thì đếm ngày tính thời gian, người đi đường thuyền thì đoán gió hẹn nhau. {{Chú thích cuối trang}} ---- ;Nguồn * 本文寫於唐僖宗中和二年(882年),收錄在崔致遠《桂苑筆耕集》卷十六。 Bản văn tả vu Đường Hi Tông trung hòa nhị niên 882 niên ), thu lục tại Thôi Trí Viễn 《 quế uyển bút canh tập 》 quyển thập lục . {{PD-old}} [[Thể loại:Tác giả Triều Tiên]] [[Thể loại:Tác giả thời Đường]] [[zh:補安南錄異圖記]] ipplbpb8dn865s1tqg2ms54hvjazz6i 195819 195817 2025-06-19T08:49:30Z Mrfly911 2215 /* Ghi chép bổ sung về những hình ảnh kỳ lạ ở An Nam */ Dịch thô, chưa chú giải. 195819 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 補安南錄異圖記 - Bổ An Nam lục dị đồ ký | tác giả = Thôi Trí Viễn | dịch giả = | năm = 882 | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Học giả Thôi Trí Viễn (857-?) (崔致遠 - 최치원 - Choe Chiwon), một người Triều Tiên du học và làm quan thời nhà Đường, đã viết sách "Bổ An Nam lục dị đồ ký" (補安南錄異圖記) vào năm 882. Thôi Trí Viễn có quan hệ với quan đô hộ phủ An Nam là Cao Biền. Sách "Bổ An Nam lục dị đồ ký" của ông viết về các vấn đề địa lý, phong tục ở An Nam đô hộ phủ. Đây có lẽ là quyển sách cổ nhất mà người Triều Tiên viết về Việt Nam. }} {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 交趾四封,圖經詳矣。然而管多生獠,境邇諸蕃,略採俚譚,用標方誌。安南之為府也,巡屬一十二郡(峰、驩、演、愛、陸、長郡、諒、武定、武安、蘇、茂、虞林),羈縻五十八州,府城東至南溟四百餘里,有山橫亙,千里而遙,邃穴深岩,為獠窟宅。蠻蜑之衆,六種星居。鄰諸蕃二十一區,管生獠二十一輩。水之西南則通闍婆、大食之國,陸之西北則接女國、烏蠻之路,曾無亭堠,莫審塗程。跂履者計日指期,沉浮者占風定信。二十一國雞犬傳聲,服食所宜,大較相類。管內生獠,多號山蹄,或被髮鏤身,或穿胸鑿齒,詭音嘲哳,奸態睢盱。其中尤異者,臥使頭飛,飲於鼻受,豹皮裹體,龜殼蔽形。搗木絮而為裘(獠子多衣木皮,熟搗有如纖纊),編竹苫而作翅。生養則夫妻代患,長成則父子爭雄。縱時有傳譯可通,亦俗無桑蠶之業。唯織雜彩狹布,多披短襟交衫。或有不縫而衣,不粒而食,死喪無服,嫁娶不媒,戰有排刀,病無藥餌。固恃險阻,各稱酋豪。遠自漢朝,迄於隋季,薦興邊患,頗役遐征。馬將軍標柱歸時,寸分地界;史總管倒碑過後,略靜海隅。洎咸通初,驃信挺災,元戎喪律。鴟嘯於跕鳶之地,豕豗於束馬之塗。摧兇欲快於摏喉,拯溺唯思於援手。先帝以今淮海太尉燕公,威宣大漠,政洽上都(時公防禦秦城,剗平醜虜,才歸輦下,出鎮安南),乃請出鎮龍編,立身豹略,剗雕題而卵碎,活黔首以肌豐。複壁壘於一麾,拔封疆於萬里。有蠹皆削,無冤不伸(朱道古稔奸於外,杜存淩恣虐於內,皆為安南巨患。公乃誅滅無遺,故禇令公遂良竄歿日南,子孫彫零,公時表洗雪)。然後使電母雷公,鑿外域朝天之路;山靈水若,偃大洋沃日之波(安南經岝口天威,神功所開,播在遠邇)。遂得絕蠻諜之北窺,紆漢軍之南戍。乃鳳傳徵詔,鷁泛歸程,至於洞獠海蠻,莫不醉恩飽義,遠投聖闕,請建生祠。則知善政所行,殊方可誘。既見馬如羊而不取,縱令蟻若象而何虞。足以驗四夷之時或不賓,九牧之任不得所也。有柔遠軍從事吳降嘗集是圖,名曰《錄異》,敘云:久觀遐蕃,目擊殊形,手題本事。然則信以傳信,斯焉取斯。既閱前詞,退而歎曰:愚之所以為異者,其諸異乎人之所異,曰六合之內,何物則棄。至如鼠肉萬斤,鰕鬂一丈,既知南北所產,永釋古今之疑。則彼獸性群分,鳥聲類聚,誠不足異也。頃太尉燕公受三顧恩,用六奇計,使獷悍歸服,邊陲晏然。今聖上省方,蒙王獻款,不敢弄吠堯之口,永能除猾夏之心。皆由燕公收交州,鎮蜀邵,威振於奔魑走魅,功成於金壘湯池。所謂藴先見之能,察未來之事,呼吸而陰陽不測,指蹤而神鬼交馳。實為天工,人其代之,斯實可為異矣。聊補所闕,敢貽將來。時翠華幸蜀之三載也。 </poem> | <poem> Giao Chỉ tứ phong , đồ kinh tường hĩ . nhiên nhi quản đa sinh lão , cảnh nhĩ chư phiền , lược thải lý đàm , dụng tiêu phương chí. An Nam chi vi phủ dã, tuần thuộc thập nhị quận (Phong, Hoan, Diễn, Ái, Lục, Trường Quận, Lạng, Vũ Định, Vũ An, Tô, Mậu, Ngu Lâm), ki mi ngũ thập bát châu, phủ thành đông chí Nam Minh tứ bách dư lý, hữu sơn hoành ngân, thiên lý nhi diêu, túy huyệt thâm nham, vi Lạo quật trạch. Man đản chi chúng , lục chủng tinh cư . lân chư phiền nhị thập nhất khu , quản sinh lão nhị thập nhất bối . Thủy chi tây nam tắc thông đồ bà, đại thực chi quốc , lục chi tây bắc tắc tiếp nữ quốc 、 ô man chi lộ , tằng vô đình hậu , mạc thẩm đồ trình . kỳ lý giả kế nhật chỉ kỳ , trầm phù giả chiêm phong định tín, Nhị thập nhất quốc kê khuyển truyện thanh , phục thực sở nghi , đại giác tương loại . quản nội sinh lão , đa hào sơn đề , hoặc bị phát lũ thân , hoặc xuyên hung tạc xỉ , quỷ âm trào triết , gian thái tuy hu. Kỳ trung vưu dị giả , ngọa sử đầu phi , ẩm vu tị thụ , báo bì khỏa thể , quy xác tế hình . đảo mộc nhứ nhi vi cừu ( lão tử đa y mộc bì , thục đảo hữu như tiêm khoáng ), biên trúc thiêm nhi tác sí . sinh dưỡng tắc phu thê đại hoạn , trường thành tắc phụ tử tranh hùng . Túng thì hữu truyện dịch khả thông , diệc tục vô tang tàm chi nghiệp . duy chức tạp thải hiệp bố , đa phi đoản khâm giao sam . hoặc hữu bất phùng nhi y , bất lạp nhi thực , tử tang vô phục , giá thú bất môi , chiến hữu bài đao , bệnh vô dược nhị. cố thị hiểm trở , các xưng tù hào . viễn tự hán triêu , hất vu tùy quý , tiến hưng biên hoạn , pha dịch hà chinh . mã tương quân tiêu trụ quy thì , thốn phân địa giới ; sử tổng quản đảo bi quá hậu , lược tĩnh hải ngung. Kịp hàm thông sơ , phiếu tín đĩnh tai , nguyên nhung tang luật . si khiếu vu thiếp diên chi địa , thỉ hôi vu thúc mã chi đồ . tồi hung dục khoái vu thung hầu , chửng nịch duy tư vu viên thủ. Tiên đế dĩ kim hoài hải thái úy yến công , uy tuyên đại mạc , chính hiệp thượng đô ( thì công phòng ngữ tần thành , sản bình xú lỗ , tài quy liễn hạ , xuất trấn an nam ) , nãi thỉnh xuất trấn long biên , lập thân báo lược , sản điêu đề nhi noãn toái , hoạt kiềm thủ dĩ cơ phong . phức bích lũy vu nhất huy , bạt phong cương vu vạn lý . hữu đố giai tước , vô oan bất thân ( chu đạo cổ nhẫm gian vu ngoại , đỗ tồn lăng tứ ngược vu nội , giai vi an nam cự hoạn . công nãi tru diệt vô di , cố 禇 lệnh công toại lương thoán một nhật nam , tử tôn điêu linh , công thì biểu tẩy tuyết). Nhiên hậu sử điện mẫu lôi công , tạc ngoại vực triêu thiên chi lộ ; sơn linh thủy nhược , yển đại dương ốc nhật chi ba ( an nam kinh 岝 khẩu thiên uy , thần công sở khai , bá tại viễn nhĩ ) . toại đắc tuyệt man điệp chi bắc khuy , hu hán quân chi nam thú . Nãi phượng truyện trưng chiếu , nghịch phiếm quy trình , chí vu động lão hải man , mạc bất túy ân bão nghĩa , viễn đầu thánh khuyết , thỉnh kiến sinh từ . tắc tri thiện chính sở hành , thù phương khả dụ . ký kiến mã như dương nhi bất thủ , túng lệnh nghĩ nhược tượng nhi hà ngu . túc dĩ nghiệm tứ di chi thì hoặc bất tân , cửu mục chi nhâm bất đắc sở dã. hữu nhu viễn quân tòng sự ngô hàng thường tập thị đồ , danh viết 《 lục dị 》 , tự vân : cửu quan hà phiền , mục kích thù hình , thủ đề bản sự . nhiên tắc tín dĩ truyện tín , tư yên thủ tư . ký duyệt tiền từ , thối nhi thán viết : ngu chi sở dĩ vi dị giả , kỳ chư dị hồ nhân chi sở dị , viết lục hợp chi nội , hà vật tắc khí . chí như thử nhục vạn cân , hà 鬂 nhất trượng , ký tri nam bắc sở sản , vĩnh thích cổ kim chi nghi . tắc bỉ thú tính quần phân , điểu thanh loại tụ , thành bất túc dị dã . khoảnh thái úy yến công thụ tam cố ân , dụng lục kỳ kế , sử quánh hãn quy phục , biên thùy yến nhiên . kim thánh thượng tỉnh phương , mông vương hiến khoản , bất cảm lộng phệ nghiêu chi khẩu , vĩnh năng trừ hoạt hạ chi tâm . giai do yến công thu giao châu , trấn thục thiệu , uy chấn vu bôn si tẩu mị , công thành vu kim lũy thang trì . sở vị 藴 tiên kiến chi năng , sát vị lai chi sự , hô hấp nhi âm dương bất trắc , chỉ tung nhi thần quỷ giao trì . thực vi thiên công , nhân kỳ đại chi , tư thực khả vi dị hĩ . liêu bổ sở khuyết , cảm di tương lai . thì thúy hoa hạnh thục chi tam tái dã . </poem> |} ==Dịch nghĩa== ===Ghi chép bổ sung về những hình ảnh kỳ lạ ở An Nam=== Vùng Giao Chỉ bốn phía đã được ghi chép rõ ràng trong các sách địa lý. Tuy nhiên, nơi đây cai quản nhiều người Lạo 䝤 sinh sống<ref>生䝤 (生獠): Sinh liêu- chỉ dân cư không sống ở các khu thành (thị dân). 獠 Liêu là từ vốn chỉ các tộc người phân bố ở khu vực phía Nam Trung Quốc như Quảng Đông, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu.</ref>, lại giáp ranh với các nước phiên bang<ref>諸蕃 (诸蕃): Chư phiên - chỉ các bộ lạc sống rải rác khu vực biên giới</ref>, nên có lược ghi lại những lời truyền miệng dân gian để bổ sung vào sách địa chí. An Nam là phủ (An Nam đô hộ phủ), có 12 quận (Phong, Hoan, Diễn, Ái, Lục, Trường Quận, Kinh, Vũ Định, Vũ An, Tô, Mậu, Ngu Lâm), kiểm soát 58 châu. Từ phía Đông của phủ này đến bể Nam là hơn 400 dặm, có núi non nằm ngang, ngàn dặm xa xôi, hang sâu vách thẳm, là nơi cư ngụ của các tộc người. Cộng đồng người có 6 chủng sống rải rác. Các bộ tộc vùng biên lân cận có 21 khu. Vùng nước phía Tây Nam thông đến nước Xà Bà<ref>Xà Bà (闍婆): Nói tắt của tên Xà Bà Bà Đạt (Saba Badal) (闍婆婆達), là tên một quốc đảo ngày nay thuộc nước Indonesia, còn có tên là Xà Bà Đạt Savadal (闍婆達).</ref> và Đại Thực<ref>Đại Thực (大食) : thường dùng chỉ đế chế Saracen (trải dài từ Syria đến Ả Rập Xe út ngày nay), tuy nhiên ở đây dùng chỉ 1 đảo quốc ở biển Đông. Tân Đường Thư (新唐書) cuốn 222 (訶陵) phần 2, Nam Man liệt truyện hạ (南蠻列傳下) có ghi: 〔大食君聞之 齎金一囊置其郊 行者輒避〕 Đại Thực quân văn chi tư kim nhất nang trí kỳ giao hành giả triếp tị Tống sử cuốn 489, phần Ngoại quốc liệt truyện (外國列傳) có ghi từ biển Xa bà đi thuyền buồm 5 ngày đến nước Đại Thực 〔汎海五日至大食國〕</ref>. Trên đất liền, hướng Tây Bắc tiếp giáp Nữ Quốc<ref>Nữ quốc ý chỉ một nước do phụ nữ làm vua, đó là tên một bộ lạc ở miền Tây Nam thời Tùy và Dường, được cho là 1 nhánh của người Khương (羌族)</ref>, đường Ô Man, chưa có vọng gác nên chưa biết rõ đường đi lối lại. Người đi đường bộ thì đếm ngày tính thời gian, người đi đường thuyền thì đoán gió hẹn nhau. Hai mươi mốt nước liền nhau, tiếng gà tiếng chó còn nghe vọng lại. Tập quán ăn mặc phần lớn tương tự nhau. Trong vùng quản hạt có người Lạo sinh sống, phần nhiều tự xưng là Sơn Đề 山蹄. Có người để tóc xõa, khắc chạm lên thân thể; có người đục ngực, khoét răng. Tiếng nói kỳ lạ, the thé như trêu chọc; dáng vẻ gian trá, mắt láo liên. Trong số đó, những điều kỳ lạ nhất là: nằm mà khiến đầu bay đi, uống thì dùng mũi để tiếp nhận; lấy da báo quấn thân, dùng mai rùa che mình. Giã sợi gỗ làm áo lông (người Lạo thường mặc vỏ cây, giã kỹ thì giống như bông tơ); đan tre làm cánh để đeo. Khi sinh dưỡng thì vợ chồng thay nhau chịu đau đớn; khi trưởng thành thì cha con tranh nhau làm kẻ mạnh. Tuy đôi khi có người phiên dịch để thông hiểu, nhưng phong tục nơi đây không có nghề trồng dâu nuôi tằm. Chỉ dệt vải hẹp với nhiều màu sắc pha tạp, phần lớn mặc áo ngắn, cổ chéo. Có người không may áo mà vẫn mặc, không ăn hạt thóc mà vẫn sống; khi có người chết thì không để tang, cưới hỏi không cần mai mối; ra trận thì dùng dao lớn để xung phong, khi bệnh thì không có thuốc men. Họ dựa vào địa thế hiểm trở, mỗi nơi đều có người đứng đầu tự xưng là thủ lĩnh. Từ thời Hán cho đến cuối đời Tùy, tai họa biên cương liên tiếp nổi lên, nhiều lần phải điều binh chinh phạt nơi xa. Khi tướng quân Mã Biểu Trụ trở về, đã phân định ranh giới từng tấc đất; sau khi tổng quản Sử Đảo Bi dựng bia đi qua, vùng ven biển tạm yên. Đến đầu niên hiệu Hàm Thông, thủ lĩnh Phiêu Tín nổi loạn, đại tướng tử trận. Chim cú kêu nơi đất diều bay, lợn rống trên đường buộc ngựa. Muốn diệt kẻ hung ác như bóp cổ cho hả giận, muốn cứu người chìm đắm thì chỉ mong có tay kéo lên. Tiên đế đã cử Yên công – nay là Thái úy trấn giữ vùng Hoài Hải – người từng uy danh vang dội nơi đại mạc, chính sự hòa hợp ở kinh đô (khi ấy công đang phòng thủ thành Tần, dẹp yên giặc dữ, vừa trở về triều thì được cử đi trấn thủ An Nam). Ngài xin ra trấn giữ Long Biên, lập thân bằng mưu lược như báo, tiêu diệt bọn khắc mình như đập trứng, cứu dân đen khiến họ được no đủ. Dựng lại thành lũy chỉ bằng một hiệu lệnh, mở rộng cương vực đến muôn dặm. Kẻ sâu mọt đều bị trừ, người oan khuất đều được giải. (Chẳng hạn như Chu Đạo Cổ làm loạn bên ngoài, Đỗ Tồn Lăng tàn ác bên trong, đều là tai họa lớn của An Nam. Công đã tiêu diệt sạch không để sót, nên Chử lệnh công Tùy Lương phải trốn chết ở Nhật Nam, con cháu tiêu vong, công khi ấy đã dâng biểu rửa sạch nỗi oan.) Sau đó khiến thần sấm thần sét mở đường cho ngoại bang vào triều cống; núi linh sông thiêng lặng sóng biển lớn, ánh mặt trời chiếu rọi (An Nam nhờ cửa Cát Khẩu mà tiếp nhận uy trời, công lao thần thánh lan truyền khắp nơi). Nhờ vậy mà chặn đứng được gián điệp man di từ phương Bắc, giảm bớt việc quân Hán phải trấn giữ phương Nam. Rồi chim phượng truyền chiếu triệu, thuyền chim yến chở đường về; đến cả bọn Lạo rừng, Man biển cũng đều say ân nghĩa, no đạo lý, xa xôi cũng hướng về triều đình, xin lập sinh từ để thờ. Như vậy đủ thấy nơi nào có chính sự tốt đẹp thì dù là phương xa cũng có thể cảm hóa. Đã thấy ngựa như dê mà không lấy, thì dù kiến to như voi cũng chẳng có gì đáng sợ. Đủ để chứng minh rằng: khi bốn phương không thần phục, là do chín châu chưa được người xứng đáng cai quản. Có viên quan quân đội tên là Ngô Giáng từng thu thập những điều này thành sách, gọi là “Lục Dị”, lời tựa viết rằng: “Lâu nay quan sát các phiên bang xa xôi, tận mắt thấy hình dạng khác lạ, tự tay ghi lại sự việc.” Như vậy là truyền điều chân thực, lấy từ điều chân thực. Đọc xong những lời trước, lui lại mà than rằng: cái gọi là điều kỳ lạ của kẻ ngu này, chẳng qua là khác với cái mà người đời cho là kỳ lạ. Trong trời đất này, có vật gì lại bị bỏ đi? Như thịt chuột nặng vạn cân, râu tôm dài một trượng, đã biết là sản vật phương Nam phương Bắc, thì vĩnh viễn không còn nghi ngờ xưa nay nữa. Vậy thì tính loài thú chia theo bầy, tiếng loài chim tụ theo loại, thật chẳng có gì lạ. Gần đây Thái úy Yên công được ba lần mời mà nhận chức, dùng sáu kế lạ khiến kẻ hung hãn phải quy phục, biên cương yên ổn. Nay Thánh thượng đi tuần phương, được các nước chư hầu dâng biểu quy thuận, không dám để miệng sủa của bọn Nghiêu làm loạn, mãi mãi trừ được mối lo trong lòng người Hạ. Tất cả là nhờ Yên công thu phục Giao Châu, trấn giữ Thục Thiệu, uy danh vang dội khiến yêu quái phải chạy trốn, công thành nơi thành đồng hào nước. Đó là người có tài nhìn xa trông rộng, biết trước việc chưa xảy ra, chỉ một hơi thở đã khiến âm dương biến hóa, một cái chỉ tay khiến thần quỷ kinh hồn. Thật là công việc của trời, mà người thay trời làm nên – đó mới thật là điều kỳ lạ vậy. Nay xin bổ sung điều còn thiếu, dám gửi lại cho đời sau. Khi ấy là năm thứ ba Thánh giá tuần du đất Thục. {{Chú thích cuối trang}} ---- ;Nguồn * 本文寫於唐僖宗中和二年(882年),收錄在崔致遠《桂苑筆耕集》卷十六。 Bản văn tả vu Đường Hi Tông trung hòa nhị niên 882 niên ), thu lục tại Thôi Trí Viễn 《 quế uyển bút canh tập 》 quyển thập lục . {{PD-old}} [[Thể loại:Tác giả Triều Tiên]] [[Thể loại:Tác giả thời Đường]] [[zh:補安南錄異圖記]] 5fosmwtb963wmez5lvafckx34ihdk4g 195838 195819 2025-06-19T11:31:56Z Mrfly911 2215 /* Ghi chép bổ sung về những hình ảnh kỳ lạ ở An Nam */ 195838 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 補安南錄異圖記 - Bổ An Nam lục dị đồ ký | tác giả = Thôi Trí Viễn | dịch giả = | năm = 882 | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Học giả Thôi Trí Viễn (857-?) (崔致遠 - 최치원 - Choe Chiwon), một người Triều Tiên du học và làm quan thời nhà Đường, đã viết sách "Bổ An Nam lục dị đồ ký" (補安南錄異圖記) vào năm 882. Thôi Trí Viễn có quan hệ với quan đô hộ phủ An Nam là Cao Biền. Sách "Bổ An Nam lục dị đồ ký" của ông viết về các vấn đề địa lý, phong tục ở An Nam đô hộ phủ. Đây có lẽ là quyển sách cổ nhất mà người Triều Tiên viết về Việt Nam. }} {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 交趾四封,圖經詳矣。然而管多生獠,境邇諸蕃,略採俚譚,用標方誌。安南之為府也,巡屬一十二郡(峰、驩、演、愛、陸、長郡、諒、武定、武安、蘇、茂、虞林),羈縻五十八州,府城東至南溟四百餘里,有山橫亙,千里而遙,邃穴深岩,為獠窟宅。蠻蜑之衆,六種星居。鄰諸蕃二十一區,管生獠二十一輩。水之西南則通闍婆、大食之國,陸之西北則接女國、烏蠻之路,曾無亭堠,莫審塗程。跂履者計日指期,沉浮者占風定信。二十一國雞犬傳聲,服食所宜,大較相類。管內生獠,多號山蹄,或被髮鏤身,或穿胸鑿齒,詭音嘲哳,奸態睢盱。其中尤異者,臥使頭飛,飲於鼻受,豹皮裹體,龜殼蔽形。搗木絮而為裘(獠子多衣木皮,熟搗有如纖纊),編竹苫而作翅。生養則夫妻代患,長成則父子爭雄。縱時有傳譯可通,亦俗無桑蠶之業。唯織雜彩狹布,多披短襟交衫。或有不縫而衣,不粒而食,死喪無服,嫁娶不媒,戰有排刀,病無藥餌。固恃險阻,各稱酋豪。遠自漢朝,迄於隋季,薦興邊患,頗役遐征。馬將軍標柱歸時,寸分地界;史總管倒碑過後,略靜海隅。洎咸通初,驃信挺災,元戎喪律。鴟嘯於跕鳶之地,豕豗於束馬之塗。摧兇欲快於摏喉,拯溺唯思於援手。先帝以今淮海太尉燕公,威宣大漠,政洽上都(時公防禦秦城,剗平醜虜,才歸輦下,出鎮安南),乃請出鎮龍編,立身豹略,剗雕題而卵碎,活黔首以肌豐。複壁壘於一麾,拔封疆於萬里。有蠹皆削,無冤不伸(朱道古稔奸於外,杜存淩恣虐於內,皆為安南巨患。公乃誅滅無遺,故禇令公遂良竄歿日南,子孫彫零,公時表洗雪)。然後使電母雷公,鑿外域朝天之路;山靈水若,偃大洋沃日之波(安南經岝口天威,神功所開,播在遠邇)。遂得絕蠻諜之北窺,紆漢軍之南戍。乃鳳傳徵詔,鷁泛歸程,至於洞獠海蠻,莫不醉恩飽義,遠投聖闕,請建生祠。則知善政所行,殊方可誘。既見馬如羊而不取,縱令蟻若象而何虞。足以驗四夷之時或不賓,九牧之任不得所也。有柔遠軍從事吳降嘗集是圖,名曰《錄異》,敘云:久觀遐蕃,目擊殊形,手題本事。然則信以傳信,斯焉取斯。既閱前詞,退而歎曰:愚之所以為異者,其諸異乎人之所異,曰六合之內,何物則棄。至如鼠肉萬斤,鰕鬂一丈,既知南北所產,永釋古今之疑。則彼獸性群分,鳥聲類聚,誠不足異也。頃太尉燕公受三顧恩,用六奇計,使獷悍歸服,邊陲晏然。今聖上省方,蒙王獻款,不敢弄吠堯之口,永能除猾夏之心。皆由燕公收交州,鎮蜀邵,威振於奔魑走魅,功成於金壘湯池。所謂藴先見之能,察未來之事,呼吸而陰陽不測,指蹤而神鬼交馳。實為天工,人其代之,斯實可為異矣。聊補所闕,敢貽將來。時翠華幸蜀之三載也。 </poem> | <poem> Giao Chỉ tứ phong , đồ kinh tường hĩ . nhiên nhi quản đa sinh lão , cảnh nhĩ chư phiền , lược thải lý đàm , dụng tiêu phương chí. An Nam chi vi phủ dã, tuần thuộc thập nhị quận (Phong, Hoan, Diễn, Ái, Lục, Trường Quận, Lạng, Vũ Định, Vũ An, Tô, Mậu, Ngu Lâm), ki mi ngũ thập bát châu, phủ thành đông chí Nam Minh tứ bách dư lý, hữu sơn hoành ngân, thiên lý nhi diêu, túy huyệt thâm nham, vi Lạo quật trạch. Man đản chi chúng , lục chủng tinh cư . lân chư phiền nhị thập nhất khu , quản sinh lão nhị thập nhất bối . Thủy chi tây nam tắc thông đồ bà, đại thực chi quốc , lục chi tây bắc tắc tiếp nữ quốc 、 ô man chi lộ , tằng vô đình hậu , mạc thẩm đồ trình . kỳ lý giả kế nhật chỉ kỳ , trầm phù giả chiêm phong định tín, Nhị thập nhất quốc kê khuyển truyện thanh , phục thực sở nghi , đại giác tương loại . quản nội sinh lão , đa hào sơn đề , hoặc bị phát lũ thân , hoặc xuyên hung tạc xỉ , quỷ âm trào triết , gian thái tuy hu. Kỳ trung vưu dị giả , ngọa sử đầu phi , ẩm vu tị thụ , báo bì khỏa thể , quy xác tế hình . đảo mộc nhứ nhi vi cừu ( lão tử đa y mộc bì , thục đảo hữu như tiêm khoáng ), biên trúc thiêm nhi tác sí . sinh dưỡng tắc phu thê đại hoạn , trường thành tắc phụ tử tranh hùng . Túng thì hữu truyện dịch khả thông , diệc tục vô tang tàm chi nghiệp . duy chức tạp thải hiệp bố , đa phi đoản khâm giao sam . hoặc hữu bất phùng nhi y , bất lạp nhi thực , tử tang vô phục , giá thú bất môi , chiến hữu bài đao , bệnh vô dược nhị. cố thị hiểm trở , các xưng tù hào . viễn tự hán triêu , hất vu tùy quý , tiến hưng biên hoạn , pha dịch hà chinh . mã tương quân tiêu trụ quy thì , thốn phân địa giới ; sử tổng quản đảo bi quá hậu , lược tĩnh hải ngung. Kịp hàm thông sơ , phiếu tín đĩnh tai , nguyên nhung tang luật . si khiếu vu thiếp diên chi địa , thỉ hôi vu thúc mã chi đồ . tồi hung dục khoái vu thung hầu , chửng nịch duy tư vu viên thủ. Tiên đế dĩ kim hoài hải thái úy yến công , uy tuyên đại mạc , chính hiệp thượng đô ( thì công phòng ngữ tần thành , sản bình xú lỗ , tài quy liễn hạ , xuất trấn an nam ) , nãi thỉnh xuất trấn long biên , lập thân báo lược , sản điêu đề nhi noãn toái , hoạt kiềm thủ dĩ cơ phong . phức bích lũy vu nhất huy , bạt phong cương vu vạn lý . hữu đố giai tước , vô oan bất thân ( chu đạo cổ nhẫm gian vu ngoại , đỗ tồn lăng tứ ngược vu nội , giai vi an nam cự hoạn . công nãi tru diệt vô di , cố 禇 lệnh công toại lương thoán một nhật nam , tử tôn điêu linh , công thì biểu tẩy tuyết). Nhiên hậu sử điện mẫu lôi công , tạc ngoại vực triêu thiên chi lộ ; sơn linh thủy nhược , yển đại dương ốc nhật chi ba ( an nam kinh 岝 khẩu thiên uy , thần công sở khai , bá tại viễn nhĩ ) . toại đắc tuyệt man điệp chi bắc khuy , hu hán quân chi nam thú . Nãi phượng truyện trưng chiếu , nghịch phiếm quy trình , chí vu động lão hải man , mạc bất túy ân bão nghĩa , viễn đầu thánh khuyết , thỉnh kiến sinh từ . tắc tri thiện chính sở hành , thù phương khả dụ . ký kiến mã như dương nhi bất thủ , túng lệnh nghĩ nhược tượng nhi hà ngu . túc dĩ nghiệm tứ di chi thì hoặc bất tân , cửu mục chi nhâm bất đắc sở dã. hữu nhu viễn quân tòng sự ngô hàng thường tập thị đồ , danh viết 《 lục dị 》 , tự vân : cửu quan hà phiền , mục kích thù hình , thủ đề bản sự . nhiên tắc tín dĩ truyện tín , tư yên thủ tư . ký duyệt tiền từ , thối nhi thán viết : ngu chi sở dĩ vi dị giả , kỳ chư dị hồ nhân chi sở dị , viết lục hợp chi nội , hà vật tắc khí . chí như thử nhục vạn cân , hà 鬂 nhất trượng , ký tri nam bắc sở sản , vĩnh thích cổ kim chi nghi . tắc bỉ thú tính quần phân , điểu thanh loại tụ , thành bất túc dị dã . khoảnh thái úy yến công thụ tam cố ân , dụng lục kỳ kế , sử quánh hãn quy phục , biên thùy yến nhiên . kim thánh thượng tỉnh phương , mông vương hiến khoản , bất cảm lộng phệ nghiêu chi khẩu , vĩnh năng trừ hoạt hạ chi tâm . giai do yến công thu giao châu , trấn thục thiệu , uy chấn vu bôn si tẩu mị , công thành vu kim lũy thang trì . sở vị 藴 tiên kiến chi năng , sát vị lai chi sự , hô hấp nhi âm dương bất trắc , chỉ tung nhi thần quỷ giao trì . thực vi thiên công , nhân kỳ đại chi , tư thực khả vi dị hĩ . liêu bổ sở khuyết , cảm di tương lai . thì thúy hoa hạnh thục chi tam tái dã . </poem> |} ==Dịch nghĩa== ===Ghi chép bổ sung về những hình ảnh kỳ lạ ở An Nam=== Vùng Giao Chỉ bốn phía đã được ghi chép rõ ràng trong các sách địa lý. Tuy nhiên, nơi đây cai quản nhiều người Lạo 䝤 sinh sống<ref>生䝤 (生獠): Sinh liêu chỉ dân cư không sống ở các khu thành (thị dân). 獠 Liêu là từ vốn chỉ các tộc người phân bố ở khu vực phía Nam Trung Quốc như Quảng Đông, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu.</ref>, lại giáp ranh với các nước phiên bang<ref>諸蕃 (诸蕃): Chư phiên - chỉ các bộ lạc sống rải rác khu vực biên giới</ref>, nên có lược ghi lại những lời truyền miệng dân gian để bổ sung vào sách địa chí. An Nam là phủ (An Nam đô hộ phủ), có 12 quận: * Phong 峰 [Châu]<ref>Vốn là quận Tân Hưng thời thuộc Ngô và Tân Xương thời thuộc Tấn. Tùy Dạng Đế bỏ và nhập vào quận Giao Chỉ. Năm 621 [Đường Cao Tổ] đặt lại Phong Châu</ref> * Hoan 驩 [ Châu]<ref>Tức quận Nhật Nam thời thuộc Tùy. Năm 622, [Đường Cao Tổ] lập ra Nam Đức châu tổng quản phủ, lĩnh 8 châu: Đức, Minh, Trí, Hoan, Lâm, Nguyên, Cảnh, Hải. Năm 624 lại đổi là Đức Châu. Năm 627 đổi Nam Đức châu tổng quản phủ thành Hoan Châu, còn Hoan Châu cũ [1 trong 8 châu cũ thuộc Nam Đức châu tổng quản phủ] thành Diễn Châu. Năm 628 [Đường Thái Tông] đặt Hoan Châu đô đốc phủ, lĩnh 8 châu Hoan, Diễn, Minh, Trí, Lâm, Nguyên, Cảnh, Hải. Năm 638 bỏ 3 châu Minh, Nguyên, Hải. Năm 742, [Đường Minh Hoàng] đổi thành quận Nhật Nam như thời Tùy. Năm 758, [Đường Túc Tông] đổi lại thành Hoan Châu [như thời Đường Thái Tông].</ref> * Diễn 演 [ Châu]<ref>Vốn tên là quận Trung Nghĩa hoặc Diễn Thủy. Thời [Đường Thái Tông] bỏ. Năm 764, tách Hoan Châu ra đặt Diễn Châu. Diễn Châu được xác định là một phần huyện Hàm Hoan thời thuộc Hán, Ngô, Tấn. (Nay là miền bắc Nghệ An gồm các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn, Quỳ Châu).</ref> * Ái 愛 [ Châu]<ref>Là quận Cửu Chân thời thuộc Tùy. Năm 622 đặt thành Ái Châu gồm có 4 huyện: Cửu Chân, Tùng Nguyên, Dương Sơn, An Thuận; đồng thời đặt ở biên giới Cửu Chân 7 châu nhỏ khác là Tích Châu, Thuận Châu, Vĩnh Châu, Tư Châu, Tiền Châu, Chân Châu, Sơn Châu. Sau đó Vĩnh châu được đổi làm Đô Châu. Năm 627, [Đường Thái Tông] bỏ Đô Châu nhập vào Tiền Châu; bỏ Tư Châu và Chân Châu nhập vào Nam Lăng, lại bỏ An Châu lập huyện Long An, bỏ Sơn Châu lập huyện Kiến Sơ. Năm 742, [Đường Huyền Tông] đổi Ái Châu thành quận Cửu Chân như thời Tùy. Năm 758, [Đường Túc Tông] đổi trở lại là Ái Châu.</ref> * Lục 陸<ref>Vốn là Hoàng Châu và quận Ninh Hải thời thuộc Lương. Năm 622 đặt Ngọc Châu. Năm 628 bỏ châu, mang các huyện gộp vào Khâm Châu. Năm 675, [Đường Cao Tông] đổi lại là Lục Châu, năm 742, [Đường Huyền Tông] đổi làm quận Ngọc Sơn, năm 758 [Đường Túc Tông] đổi lại là Lục Châu như cũ. (Nay gồm một phần phía nam Khâm Châu thuộc Quảng Tây và dải đất dọc biển của tỉnh Quảng Ninh)</ref> * Trường Quận 長郡<ref>Năm 742, [Đường Huyền Tông] đổi làm quận Văn Dương, năm 758 Đường Túc Tông đổi làm Trường Châu như cũ. Trường Châu được xác định vị trí tương đương huyện Vô Công thuộc quận Cửu Chân thời thuộc Hán (nay là miền Nho Quan, Yên Khánh tỉnh Ninh Bình).</ref> * Lạng 諒<ref>có thể là Lạng Sơn?</ref> * Vũ Định 武定<ref>nay là 1 phần của Lào Cai và Vân Nam</ref> * Vũ An 武安<ref>nay là 1 phần Nam Định, Hải Phòng, Thái Bình</ref> * Tô 蘇<ref>nay thuộc Quảng Ninh, Hải Dương, 1 phần Hải Phòng</ref> * Mậu 茂<ref>nay là 1 phần của Hà Giang, Tuyên Quang</ref> * Ngu Lâm 虞林 và kiểm soát 58 châu cơ mi 羈縻<ref>Châu Ki mi là các châu bị quản lý ràng buộc lỏng lẻo. Tại An Nam đô hộ phủ có tới 58 châu Ki mi (trong đó 18 châu lệ vào Châu Phong, mới khảo được 43 Châu), người Tây Âu, người Lão, người Thoán: 1. Nam châu南州. 2. Tích châu 昔州. 3. Đông châu東州. 4. Tư Nông châu 鉏儂州 5. Lâm Tây châu 林西州 6. Long châu 龍州 (nay là huyện Long Châu khu tự trị Choang TQ, giáp Cao Bằng) 7. Môn châu 門州 8. An Đức châu 安德州 9. Quy Hóa châu 龜貨州 (nay là 1 phần Phú Thọ, Sơn La, Sơn Tây và Lào) 10. Vũ Văn châu 宇文州 11. Đô Kim châu 都今州 12. Lộc châu 祿州 (thuộc Lộc Bình, Lạng Sơn) 13. Kim Long châu 今龍州 14. Kim Quách châu 今崞州 15. Cam Đường châu 甘棠州 (nay là Lào Cai) 16. Lạng châu 諒州 (nay là Lạng Sơn và 1 phần Nam Ninh, TQ) 17. Nam Bình châu 南平州 (nay là Nam Quan và 1 phần lớn Nam Ninh, TQ) 18. Kha Phú châu 軻富州 19. Đề Thượng châu 諦上州 20. Vi châu 圍州 21. Vũ Lục châu 宇六洲 22. Tây Bình châu 西平州 23. Thượng Tư châu 上鉏州 24. Long Vũ châu 龍宇州 (nay thuộc Ngô Châu, khu dân tộc Choang, Quảng Tây) 25. Tân An châu 新安州 (nay thuộc Yên Bái) 26. Vũ Định châu 武定州 (nay là huyện Vũ Định, tỉnh Vân Nam) 27. Tư Lăng châu 思陵州 28. Phàn Đức châu 樊德州 29. Nam Đăng châu 南鐙州 (nay thuộc Văn Bàn và 1 phần Lào Cai) 30. Tây Nguyên châu 西原州 31. Tư Quách châu 思郭州 32. Thử châu 暑州 33. Dư châu 與州 34. Đức Hóa châu 德化州 35. Quận châu 郡州 36. Quy châu 媯州 37. Bình Nguyên châu 平原州 (Nay là Hòa An và 1 phần tỉnh Cao Bằng) 38. La Phục châu 羅復州 39.Lang Mang châu 郎邙州 40. Vạn Kim châu 萬今州 (Nay thuộc Hòa Bình và 1 phần Mỹ Đức) 41. Kim Bưu châu 今郵州 42. Tín châu 信州 43. Thiêm Lăng châu 僉陵州 </ref>. Từ phía Đông của phủ này đến bể Nam là hơn 400 dặm<ref>nguyên văn: 里 lý, đơn vị đo lường cổ, 1 lý khoảng 500m</ref>, có núi non nằm ngang, ngàn dặm xa xôi, hang sâu vách thẳm, là nơi cư ngụ của các tộc người. Cộng đồng người có 6 chủng sống rải rác. Các bộ tộc vùng biên lân cận có 21 khu. Vùng nước phía Tây Nam thông đến nước Đồ Bà<ref>Các nước ở khu vực quần đảo Java (Chà Và). Hoặc là Xà Bà (闍婆): Nói tắt của tên Xà Bà Bà Đạt (Saba Badal) (闍婆婆達), là tên một quốc đảo ngày nay thuộc nước Indonesia, còn có tên là Xà Bà Đạt Savadal (闍婆達).</ref> và Đại Thực<ref>Đại Thực (大食) : thường dùng chỉ đế chế Saracen (trải dài từ Syria đến Ả Rập Xe út ngày nay), tuy nhiên ở đây dùng chỉ 1 đảo quốc ở biển Đông. Tân Đường Thư (新唐書) cuốn 222 (訶陵) phần 2, Nam Man liệt truyện hạ (南蠻列傳下) có ghi: 〔大食君聞之 齎金一囊置其郊 行者輒避〕 Đại Thực quân văn chi tư kim nhất nang trí kỳ giao hành giả triếp tị Tống sử cuốn 489, phần Ngoại quốc liệt truyện (外國列傳) có ghi từ biển Đồ Bà đi thuyền buồm 5 ngày đến nước Đại Thực 汎海五日至大食國. Đại Thực cũng có thể là 1 vùng lãnh thổ A-rập theo Hồi Giáo tồn tại từ khoảng năm 632-1258, vị trí hiện tại gồm Ấn Độ, iran, iraq, và vùng Trung Đông. </ref>. Trên đất liền, hướng Tây Bắc tiếp giáp Nữ Quốc<ref>Nữ quốc ý chỉ một nước do phụ nữ làm vua, đó là tên một bộ lạc ở miền Tây Nam thời Tùy và Đường, được cho là 1 nhánh của người Khương (羌族). Hoặc cũng có thể là 1 quốc gia cổ, bây giờ là khu vực cao nguyên Thanh Hải-Tây Tạng và vùng Kashmir.</ref>, có đường đi Ô Man, chưa có vọng gác nên chưa biết rõ đường đi lối lại. Người đi đường bộ thì đếm ngày tính thời gian, người đi đường thuyền thì đoán gió hẹn nhau. Hai mươi mốt nước liền nhau, tiếng gà tiếng chó còn nghe vọng lại. Tập quán ăn mặc phần lớn tương tự nhau. Trong vùng quản hạt có người Lạo sinh sống, phần nhiều tự xưng là Sơn Đề 山蹄. Có người để tóc xõa, xăm hình lên thân thể; có người cà khoét răng<ref>có lẽ là tục mài nhuộm răng?</ref>. Tiếng nói kỳ lạ, the thé như trêu chọc; dáng vẻ gian trá, mắt láo liên. Trong số đó, những điều kỳ lạ nhất là: nằm mà khiến đầu bay đi<ref>có lẽ nói đến truyền thuyết Ma lai hay Krasue là hồn ma hiếm hoi xuất hiện trong văn hóa dân gian của nhiều quốc gia Đông Nam Á. Trong truyền thuyết, ma lai là lời nguyền ám lên một người phụ nữ. Mỗi khi đêm về, chiếc đầu cùng nội tạng của chúng tách ra và bay lơ lửng trong không khí với cơn thèm khát máu vô tận.</ref>, uống thì dùng mũi để tiếp nhận; lấy da báo quấn thân, dùng mai rùa che mình. Giã sợi gỗ làm áo lông (người Lạo thường mặc vỏ cây, giã kỹ thì giống như bông tơ); người ta lợp nhà bằng cây tre trúc trông như cánh chim. Khi sinh con và nuôi dưỡng thì vợ chồng thay nhau chịu gian khó; khi trưởng thành thì cha con tranh nhau làm kẻ mạnh. Tuy đôi khi có người phiên dịch để thông hiểu, nhưng phong tục nơi đây không có nghề trồng dâu nuôi tằm. Chỉ dệt vải hẹp với nhiều màu sắc pha tạp, phần lớn mặc áo ngắn, cổ chéo. Có người không may áo mà mặc một tấm vải liền, không ăn hạt thóc mà vẫn sống<ref>ý nói không ăn gạo thóc</ref>; khi có người chết thì không để tang, cưới hỏi không cần mai mối; ra trận thì dùng dao lớn để xung phong, khi bệnh thì không có thuốc men. Họ dựa vào địa thế hiểm trở, mỗi nơi đều có người đứng đầu tự xưng là tù trưởng, hào trưởng. Từ thời Hán cho đến cuối đời Tùy, tai họa biên cương liên tiếp nổi lên, nhiều lần phải điều binh chinh phạt nơi xa. Khi tướng quân Mã Biểu Trụ trở về, đã phân định ranh giới từng tấc đất; sau khi tổng quản Sử Đảo Bi dựng bia đi qua, vùng ven biển tạm yên. Đến đầu niên hiệu Hàm Thông, thủ lĩnh Phiêu Tín nổi loạn, đại tướng tử trận. Chim cú kêu nơi đất diều bay, lợn rống trên đường buộc ngựa. Muốn diệt kẻ hung ác như bóp cổ cho hả giận, muốn cứu người chìm đắm thì chỉ mong có tay kéo lên. Tiên đế đã cử Yên công – nay là Thái úy trấn giữ vùng Hoài Hải – người từng uy danh vang dội nơi đại mạc, chính sự hòa hợp ở kinh đô (khi ấy công đang phòng thủ thành Tần, dẹp yên giặc dữ, vừa trở về triều thì được cử đi trấn thủ An Nam). Ngài xin ra trấn giữ Long Biên, lập thân bằng mưu lược như báo, tiêu diệt bọn khắc mình như đập trứng, cứu dân đen khiến họ được no đủ. Dựng lại thành lũy chỉ bằng một hiệu lệnh, mở rộng cương vực đến muôn dặm. Kẻ sâu mọt đều bị trừ, người oan khuất đều được giải. (Chẳng hạn như Chu Đạo Cổ làm loạn bên ngoài, Đỗ Tồn Lăng tàn ác bên trong, đều là tai họa lớn của An Nam. Công đã tiêu diệt sạch không để sót, nên Chử lệnh công Tùy Lương phải trốn chết ở Nhật Nam, con cháu tiêu vong, công khi ấy đã dâng biểu rửa sạch nỗi oan.) Sau đó khiến thần sấm thần sét mở đường cho ngoại bang vào triều cống; núi linh sông thiêng lặng sóng biển lớn, ánh mặt trời chiếu rọi (An Nam nhờ cửa Cát Khẩu mà tiếp nhận uy trời, công lao thần thánh lan truyền khắp nơi). Nhờ vậy mà chặn đứng được gián điệp man di từ phương Bắc, giảm bớt việc quân Hán phải trấn giữ phương Nam. Rồi chim phượng truyền chiếu triệu, thuyền chim yến chở đường về; đến cả bọn Lạo rừng, Man biển cũng đều say ân nghĩa, no đạo lý, xa xôi cũng hướng về triều đình, xin lập sinh từ để thờ. Như vậy đủ thấy nơi nào có chính sự tốt đẹp thì dù là phương xa cũng có thể cảm hóa. Đã thấy ngựa như dê mà không lấy, thì dù kiến to như voi cũng chẳng có gì đáng sợ. Đủ để chứng minh rằng: khi bốn phương không thần phục, là do chín châu chưa được người xứng đáng cai quản. Có viên quan quân đội tên là Ngô Giáng từng thu thập những điều này thành sách, gọi là “Lục Dị”, lời tựa viết rằng: “Lâu nay quan sát các phiên bang xa xôi, tận mắt thấy hình dạng khác lạ, tự tay ghi lại sự việc.” Như vậy là truyền điều chân thực, lấy từ điều chân thực. Đọc xong những lời trước, lui lại mà than rằng: cái gọi là điều kỳ lạ của kẻ ngu này, chẳng qua là khác với cái mà người đời cho là kỳ lạ. Trong trời đất này, có vật gì lại bị bỏ đi? Như thịt chuột nặng vạn cân, râu tôm dài một trượng, đã biết là sản vật phương Nam phương Bắc, thì vĩnh viễn không còn nghi ngờ xưa nay nữa. Vậy thì tính loài thú chia theo bầy, tiếng loài chim tụ theo loại, thật chẳng có gì lạ. Gần đây Thái úy Yên công được ba lần mời mà nhận chức, dùng sáu kế lạ khiến kẻ hung hãn phải quy phục, biên cương yên ổn. Nay Thánh thượng đi tuần phương, được các nước chư hầu dâng biểu quy thuận, không dám để miệng sủa của bọn Nghiêu làm loạn, mãi mãi trừ được mối lo trong lòng người Hạ. Tất cả là nhờ Yên công thu phục Giao Châu, trấn giữ Thục Thiệu, uy danh vang dội khiến yêu quái phải chạy trốn, công thành nơi thành đồng hào nước. Đó là người có tài nhìn xa trông rộng, biết trước việc chưa xảy ra, chỉ một hơi thở đã khiến âm dương biến hóa, một cái chỉ tay khiến thần quỷ kinh hồn. Thật là công việc của trời, mà người thay trời làm nên – đó mới thật là điều kỳ lạ vậy. Nay xin bổ sung điều còn thiếu, dám gửi lại cho đời sau. Khi ấy là năm thứ ba Thánh giá tuần du đất Thục. {{Chú thích cuối trang}} ---- ;Nguồn * 本文寫於唐僖宗中和二年(882年),收錄在崔致遠《桂苑筆耕集》卷十六。 Bản văn tả vu Đường Hi Tông trung hòa nhị niên 882 niên ), thu lục tại Thôi Trí Viễn 《 quế uyển bút canh tập 》 quyển thập lục . {{PD-old}} [[Thể loại:Tác giả Triều Tiên]] [[Thể loại:Tác giả thời Đường]] [[zh:補安南錄異圖記]] 8eifzf69fmcey9idw0f9ep4cqe2uodw 195839 195838 2025-06-19T11:51:04Z Mrfly911 2215 /* Ghi chép bổ sung về những hình ảnh kỳ lạ ở An Nam */ 195839 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 補安南錄異圖記 - Bổ An Nam lục dị đồ ký | tác giả = Thôi Trí Viễn | dịch giả = | năm = 882 | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Học giả Thôi Trí Viễn (857-?) (崔致遠 - 최치원 - Choe Chiwon), một người Triều Tiên du học và làm quan thời nhà Đường, đã viết sách "Bổ An Nam lục dị đồ ký" (補安南錄異圖記) vào năm 882. Thôi Trí Viễn có quan hệ với quan đô hộ phủ An Nam là Cao Biền. Sách "Bổ An Nam lục dị đồ ký" của ông viết về các vấn đề địa lý, phong tục ở An Nam đô hộ phủ. Đây có lẽ là quyển sách cổ nhất mà người Triều Tiên viết về Việt Nam. }} {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 交趾四封,圖經詳矣。然而管多生獠,境邇諸蕃,略採俚譚,用標方誌。安南之為府也,巡屬一十二郡(峰、驩、演、愛、陸、長郡、諒、武定、武安、蘇、茂、虞林),羈縻五十八州,府城東至南溟四百餘里,有山橫亙,千里而遙,邃穴深岩,為獠窟宅。蠻蜑之衆,六種星居。鄰諸蕃二十一區,管生獠二十一輩。水之西南則通闍婆、大食之國,陸之西北則接女國、烏蠻之路,曾無亭堠,莫審塗程。跂履者計日指期,沉浮者占風定信。二十一國雞犬傳聲,服食所宜,大較相類。管內生獠,多號山蹄,或被髮鏤身,或穿胸鑿齒,詭音嘲哳,奸態睢盱。其中尤異者,臥使頭飛,飲於鼻受,豹皮裹體,龜殼蔽形。搗木絮而為裘(獠子多衣木皮,熟搗有如纖纊),編竹苫而作翅。生養則夫妻代患,長成則父子爭雄。縱時有傳譯可通,亦俗無桑蠶之業。唯織雜彩狹布,多披短襟交衫。或有不縫而衣,不粒而食,死喪無服,嫁娶不媒,戰有排刀,病無藥餌。固恃險阻,各稱酋豪。遠自漢朝,迄於隋季,薦興邊患,頗役遐征。馬將軍標柱歸時,寸分地界;史總管倒碑過後,略靜海隅。洎咸通初,驃信挺災,元戎喪律。鴟嘯於跕鳶之地,豕豗於束馬之塗。摧兇欲快於摏喉,拯溺唯思於援手。先帝以今淮海太尉燕公,威宣大漠,政洽上都(時公防禦秦城,剗平醜虜,才歸輦下,出鎮安南),乃請出鎮龍編,立身豹略,剗雕題而卵碎,活黔首以肌豐。複壁壘於一麾,拔封疆於萬里。有蠹皆削,無冤不伸(朱道古稔奸於外,杜存淩恣虐於內,皆為安南巨患。公乃誅滅無遺,故禇令公遂良竄歿日南,子孫彫零,公時表洗雪)。然後使電母雷公,鑿外域朝天之路;山靈水若,偃大洋沃日之波(安南經岝口天威,神功所開,播在遠邇)。遂得絕蠻諜之北窺,紆漢軍之南戍。乃鳳傳徵詔,鷁泛歸程,至於洞獠海蠻,莫不醉恩飽義,遠投聖闕,請建生祠。則知善政所行,殊方可誘。既見馬如羊而不取,縱令蟻若象而何虞。足以驗四夷之時或不賓,九牧之任不得所也。有柔遠軍從事吳降嘗集是圖,名曰《錄異》,敘云:久觀遐蕃,目擊殊形,手題本事。然則信以傳信,斯焉取斯。既閱前詞,退而歎曰:愚之所以為異者,其諸異乎人之所異,曰六合之內,何物則棄。至如鼠肉萬斤,鰕鬂一丈,既知南北所產,永釋古今之疑。則彼獸性群分,鳥聲類聚,誠不足異也。頃太尉燕公受三顧恩,用六奇計,使獷悍歸服,邊陲晏然。今聖上省方,蒙王獻款,不敢弄吠堯之口,永能除猾夏之心。皆由燕公收交州,鎮蜀邵,威振於奔魑走魅,功成於金壘湯池。所謂藴先見之能,察未來之事,呼吸而陰陽不測,指蹤而神鬼交馳。實為天工,人其代之,斯實可為異矣。聊補所闕,敢貽將來。時翠華幸蜀之三載也。 </poem> | <poem> Giao Chỉ tứ phong , đồ kinh tường hĩ . nhiên nhi quản đa sinh lão , cảnh nhĩ chư phiền , lược thải lý đàm , dụng tiêu phương chí. An Nam chi vi phủ dã, tuần thuộc thập nhị quận (Phong, Hoan, Diễn, Ái, Lục, Trường Quận, Lạng, Vũ Định, Vũ An, Tô, Mậu, Ngu Lâm), ki mi ngũ thập bát châu, phủ thành đông chí Nam Minh tứ bách dư lý, hữu sơn hoành ngân, thiên lý nhi diêu, túy huyệt thâm nham, vi Lạo quật trạch. Man đản chi chúng , lục chủng tinh cư . lân chư phiền nhị thập nhất khu , quản sinh lão nhị thập nhất bối . Thủy chi tây nam tắc thông đồ bà, đại thực chi quốc , lục chi tây bắc tắc tiếp nữ quốc 、 ô man chi lộ , tằng vô đình hậu , mạc thẩm đồ trình . kỳ lý giả kế nhật chỉ kỳ , trầm phù giả chiêm phong định tín, Nhị thập nhất quốc kê khuyển truyện thanh , phục thực sở nghi , đại giác tương loại . quản nội sinh lão , đa hào sơn đề , hoặc bị phát lũ thân , hoặc xuyên hung tạc xỉ , quỷ âm trào triết , gian thái tuy hu. Kỳ trung vưu dị giả , ngọa sử đầu phi , ẩm vu tị thụ , báo bì khỏa thể , quy xác tế hình . đảo mộc nhứ nhi vi cừu ( lão tử đa y mộc bì , thục đảo hữu như tiêm khoáng ), biên trúc thiêm nhi tác sí . sinh dưỡng tắc phu thê đại hoạn , trường thành tắc phụ tử tranh hùng . Túng thì hữu truyện dịch khả thông , diệc tục vô tang tàm chi nghiệp . duy chức tạp thải hiệp bố , đa phi đoản khâm giao sam . hoặc hữu bất phùng nhi y , bất lạp nhi thực , tử tang vô phục , giá thú bất môi , chiến hữu bài đao , bệnh vô dược nhị. cố thị hiểm trở , các xưng tù hào . viễn tự hán triêu , hất vu tùy quý , tiến hưng biên hoạn , pha dịch hà chinh . mã tương quân tiêu trụ quy thì , thốn phân địa giới ; sử tổng quản đảo bi quá hậu , lược tĩnh hải ngung. Kịp hàm thông sơ , phiếu tín đĩnh tai , nguyên nhung tang luật . si khiếu vu thiếp diên chi địa , thỉ hôi vu thúc mã chi đồ . tồi hung dục khoái vu thung hầu , chửng nịch duy tư vu viên thủ. Tiên đế dĩ kim hoài hải thái úy yến công , uy tuyên đại mạc , chính hiệp thượng đô ( thì công phòng ngữ tần thành , sản bình xú lỗ , tài quy liễn hạ , xuất trấn an nam ) , nãi thỉnh xuất trấn long biên , lập thân báo lược , sản điêu đề nhi noãn toái , hoạt kiềm thủ dĩ cơ phong . phức bích lũy vu nhất huy , bạt phong cương vu vạn lý . hữu đố giai tước , vô oan bất thân ( chu đạo cổ nhẫm gian vu ngoại , đỗ tồn lăng tứ ngược vu nội , giai vi an nam cự hoạn . công nãi tru diệt vô di , cố 禇 lệnh công toại lương thoán một nhật nam , tử tôn điêu linh , công thì biểu tẩy tuyết). Nhiên hậu sử điện mẫu lôi công , tạc ngoại vực triêu thiên chi lộ ; sơn linh thủy nhược , yển đại dương ốc nhật chi ba ( an nam kinh 岝 khẩu thiên uy , thần công sở khai , bá tại viễn nhĩ ) . toại đắc tuyệt man điệp chi bắc khuy , hu hán quân chi nam thú . Nãi phượng truyện trưng chiếu , nghịch phiếm quy trình , chí vu động lão hải man , mạc bất túy ân bão nghĩa , viễn đầu thánh khuyết , thỉnh kiến sinh từ . tắc tri thiện chính sở hành , thù phương khả dụ . ký kiến mã như dương nhi bất thủ , túng lệnh nghĩ nhược tượng nhi hà ngu . túc dĩ nghiệm tứ di chi thì hoặc bất tân , cửu mục chi nhâm bất đắc sở dã. hữu nhu viễn quân tòng sự ngô hàng thường tập thị đồ , danh viết 《 lục dị 》 , tự vân : cửu quan hà phiền , mục kích thù hình , thủ đề bản sự . nhiên tắc tín dĩ truyện tín , tư yên thủ tư . ký duyệt tiền từ , thối nhi thán viết : ngu chi sở dĩ vi dị giả , kỳ chư dị hồ nhân chi sở dị , viết lục hợp chi nội , hà vật tắc khí . chí như thử nhục vạn cân , hà 鬂 nhất trượng , ký tri nam bắc sở sản , vĩnh thích cổ kim chi nghi . tắc bỉ thú tính quần phân , điểu thanh loại tụ , thành bất túc dị dã . khoảnh thái úy yến công thụ tam cố ân , dụng lục kỳ kế , sử quánh hãn quy phục , biên thùy yến nhiên . kim thánh thượng tỉnh phương , mông vương hiến khoản , bất cảm lộng phệ nghiêu chi khẩu , vĩnh năng trừ hoạt hạ chi tâm . giai do yến công thu giao châu , trấn thục thiệu , uy chấn vu bôn si tẩu mị , công thành vu kim lũy thang trì . sở vị 藴 tiên kiến chi năng , sát vị lai chi sự , hô hấp nhi âm dương bất trắc , chỉ tung nhi thần quỷ giao trì . thực vi thiên công , nhân kỳ đại chi , tư thực khả vi dị hĩ . liêu bổ sở khuyết , cảm di tương lai . thì thúy hoa hạnh thục chi tam tái dã . </poem> |} ==Dịch nghĩa== ===Ghi chép bổ sung về những hình ảnh kỳ lạ ở An Nam=== Vùng Giao Chỉ bốn phía đã được ghi chép rõ ràng trong các sách địa lý. Tuy nhiên, nơi đây cai quản nhiều người Lạo 䝤 sinh sống<ref>生䝤 (生獠): Sinh liêu chỉ dân cư không sống ở các khu thành (thị dân). 獠 Liêu là từ vốn chỉ các tộc người phân bố ở khu vực phía Nam Trung Quốc như Quảng Đông, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu.</ref>, lại giáp ranh với các nước phiên bang<ref>諸蕃 (诸蕃): Chư phiên - chỉ các bộ lạc sống rải rác khu vực biên giới</ref>, nên có lược ghi lại những lời truyền miệng dân gian để bổ sung vào sách địa chí. An Nam là phủ (An Nam đô hộ phủ), có 12 quận: * Phong 峰 [Châu]<ref>Vốn là quận Tân Hưng thời thuộc Ngô và Tân Xương thời thuộc Tấn. Tùy Dạng Đế bỏ và nhập vào quận Giao Chỉ. Năm 621 [Đường Cao Tổ] đặt lại Phong Châu</ref> * Hoan 驩 [ Châu]<ref>Tức quận Nhật Nam thời thuộc Tùy. Năm 622, [Đường Cao Tổ] lập ra Nam Đức châu tổng quản phủ, lĩnh 8 châu: Đức, Minh, Trí, Hoan, Lâm, Nguyên, Cảnh, Hải. Năm 624 lại đổi là Đức Châu. Năm 627 đổi Nam Đức châu tổng quản phủ thành Hoan Châu, còn Hoan Châu cũ [1 trong 8 châu cũ thuộc Nam Đức châu tổng quản phủ] thành Diễn Châu. Năm 628 [Đường Thái Tông] đặt Hoan Châu đô đốc phủ, lĩnh 8 châu Hoan, Diễn, Minh, Trí, Lâm, Nguyên, Cảnh, Hải. Năm 638 bỏ 3 châu Minh, Nguyên, Hải. Năm 742, [Đường Minh Hoàng] đổi thành quận Nhật Nam như thời Tùy. Năm 758, [Đường Túc Tông] đổi lại thành Hoan Châu [như thời Đường Thái Tông].</ref> * Diễn 演 [ Châu]<ref>Vốn tên là quận Trung Nghĩa hoặc Diễn Thủy. Thời [Đường Thái Tông] bỏ. Năm 764, tách Hoan Châu ra đặt Diễn Châu. Diễn Châu được xác định là một phần huyện Hàm Hoan thời thuộc Hán, Ngô, Tấn. (Nay là miền bắc Nghệ An gồm các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn, Quỳ Châu).</ref> * Ái 愛 [ Châu]<ref>Là quận Cửu Chân thời thuộc Tùy. Năm 622 đặt thành Ái Châu gồm có 4 huyện: Cửu Chân, Tùng Nguyên, Dương Sơn, An Thuận; đồng thời đặt ở biên giới Cửu Chân 7 châu nhỏ khác là Tích Châu, Thuận Châu, Vĩnh Châu, Tư Châu, Tiền Châu, Chân Châu, Sơn Châu. Sau đó Vĩnh châu được đổi làm Đô Châu. Năm 627, [Đường Thái Tông] bỏ Đô Châu nhập vào Tiền Châu; bỏ Tư Châu và Chân Châu nhập vào Nam Lăng, lại bỏ An Châu lập huyện Long An, bỏ Sơn Châu lập huyện Kiến Sơ. Năm 742, [Đường Huyền Tông] đổi Ái Châu thành quận Cửu Chân như thời Tùy. Năm 758, [Đường Túc Tông] đổi trở lại là Ái Châu.</ref> * Lục 陸<ref>Vốn là Hoàng Châu và quận Ninh Hải thời thuộc Lương. Năm 622 đặt Ngọc Châu. Năm 628 bỏ châu, mang các huyện gộp vào Khâm Châu. Năm 675, [Đường Cao Tông] đổi lại là Lục Châu, năm 742, [Đường Huyền Tông] đổi làm quận Ngọc Sơn, năm 758 [Đường Túc Tông] đổi lại là Lục Châu như cũ. (Nay gồm một phần phía nam Khâm Châu thuộc Quảng Tây và dải đất dọc biển của tỉnh Quảng Ninh)</ref> * Trường Quận 長郡<ref>Năm 742, [Đường Huyền Tông] đổi làm quận Văn Dương, năm 758 Đường Túc Tông đổi làm Trường Châu như cũ. Trường Châu được xác định vị trí tương đương huyện Vô Công thuộc quận Cửu Chân thời thuộc Hán (nay là miền Nho Quan, Yên Khánh tỉnh Ninh Bình).</ref> * Lạng 諒<ref>có thể là Lạng Sơn?</ref> * Vũ Định 武定<ref>nay là 1 phần của Lào Cai và Vân Nam</ref> * Vũ An 武安<ref>nay là 1 phần Nam Định, Hải Phòng, Thái Bình</ref> * Tô 蘇<ref>nay thuộc Quảng Ninh, Hải Dương, 1 phần Hải Phòng</ref> * Mậu 茂<ref>nay là 1 phần của Hà Giang, Tuyên Quang</ref> * Ngu Lâm 虞林 và kiểm soát 58 châu cơ mi 羈縻<ref>Châu Ki mi là các châu bị quản lý ràng buộc lỏng lẻo. Tại An Nam đô hộ phủ có tới 58 châu Ki mi (trong đó 18 châu lệ vào Châu Phong, mới khảo được 43 Châu), người Tây Âu, người Lão, người Thoán: 1. Nam châu南州. 2. Tích châu 昔州. 3. Đông châu東州. 4. Tư Nông châu 鉏儂州 5. Lâm Tây châu 林西州 6. Long châu 龍州 (nay là huyện Long Châu khu tự trị Choang TQ, giáp Cao Bằng) 7. Môn châu 門州 8. An Đức châu 安德州 9. Quy Hóa châu 龜貨州 (nay là 1 phần Phú Thọ, Sơn La, Sơn Tây và Lào) 10. Vũ Văn châu 宇文州 11. Đô Kim châu 都今州 12. Lộc châu 祿州 (thuộc Lộc Bình, Lạng Sơn) 13. Kim Long châu 今龍州 14. Kim Quách châu 今崞州 15. Cam Đường châu 甘棠州 (nay là Lào Cai) 16. Lạng châu 諒州 (nay là Lạng Sơn và 1 phần Nam Ninh, TQ) 17. Nam Bình châu 南平州 (nay là Nam Quan và 1 phần lớn Nam Ninh, TQ) 18. Kha Phú châu 軻富州 19. Đề Thượng châu 諦上州 20. Vi châu 圍州 21. Vũ Lục châu 宇六洲 22. Tây Bình châu 西平州 23. Thượng Tư châu 上鉏州 24. Long Vũ châu 龍宇州 (nay thuộc Ngô Châu, khu dân tộc Choang, Quảng Tây) 25. Tân An châu 新安州 (nay thuộc Yên Bái) 26. Vũ Định châu 武定州 (nay là huyện Vũ Định, tỉnh Vân Nam) 27. Tư Lăng châu 思陵州 28. Phàn Đức châu 樊德州 29. Nam Đăng châu 南鐙州 (nay thuộc Văn Bàn và 1 phần Lào Cai) 30. Tây Nguyên châu 西原州 31. Tư Quách châu 思郭州 32. Thử châu 暑州 33. Dư châu 與州 34. Đức Hóa châu 德化州 35. Quận châu 郡州 36. Quy châu 媯州 37. Bình Nguyên châu 平原州 (Nay là Hòa An và 1 phần tỉnh Cao Bằng) 38. La Phục châu 羅復州 39.Lang Mang châu 郎邙州 40. Vạn Kim châu 萬今州 (Nay thuộc Hòa Bình và 1 phần Mỹ Đức) 41. Kim Bưu châu 今郵州 42. Tín châu 信州 43. Thiêm Lăng châu 僉陵州 </ref>. Từ phía Đông của phủ này đến bể Nam là hơn 400 dặm<ref>nguyên văn: 里 lý, đơn vị đo lường cổ, 1 lý khoảng 500m</ref>, có núi non nằm ngang, ngàn dặm xa xôi, hang sâu vách thẳm, là nơi cư ngụ của các tộc người. Cộng đồng người có 6 chủng sống rải rác. Các bộ tộc vùng biên lân cận có 21 khu. Vùng nước phía Tây Nam thông đến nước Đồ Bà<ref>Các nước ở khu vực quần đảo Java (Chà Và). Hoặc là Xà Bà (闍婆): Nói tắt của tên Xà Bà Bà Đạt (Saba Badal) (闍婆婆達), là tên một quốc đảo ngày nay thuộc nước Indonesia, còn có tên là Xà Bà Đạt Savadal (闍婆達).</ref> và Đại Thực<ref>Đại Thực (大食) : thường dùng chỉ đế chế Saracen (trải dài từ Syria đến Ả Rập Xe út ngày nay), tuy nhiên ở đây dùng chỉ 1 đảo quốc ở biển Đông. Tân Đường Thư (新唐書) cuốn 222 (訶陵) phần 2, Nam Man liệt truyện hạ (南蠻列傳下) có ghi: 〔大食君聞之 齎金一囊置其郊 行者輒避〕 Đại Thực quân văn chi tư kim nhất nang trí kỳ giao hành giả triếp tị Tống sử cuốn 489, phần Ngoại quốc liệt truyện (外國列傳) có ghi từ biển Đồ Bà đi thuyền buồm 5 ngày đến nước Đại Thực 汎海五日至大食國. Đại Thực cũng có thể là 1 vùng lãnh thổ A-rập theo Hồi Giáo tồn tại từ khoảng năm 632-1258, vị trí hiện tại gồm Ấn Độ, iran, iraq, và vùng Trung Đông. </ref>. Trên đất liền, hướng Tây Bắc tiếp giáp Nữ Quốc<ref>Nữ quốc ý chỉ một nước do phụ nữ làm vua, đó là tên một bộ lạc ở miền Tây Nam thời Tùy và Đường, được cho là 1 nhánh của người Khương (羌族). Hoặc cũng có thể là 1 quốc gia cổ, bây giờ là khu vực cao nguyên Thanh Hải-Tây Tạng và vùng Kashmir.</ref>, có đường đi Ô Man, chưa có vọng gác nên chưa biết rõ đường đi lối lại. Người đi đường bộ thì đếm ngày tính thời gian, người đi đường thuyền thì đoán gió hẹn nhau. Hai mươi mốt nước liền nhau, tiếng gà tiếng chó còn nghe vọng lại. Tập quán ăn mặc phần lớn tương tự nhau. Trong vùng quản hạt có người Lạo sinh sống, phần nhiều tự xưng là Sơn Đề 山蹄. Có người để tóc xõa, xăm hình lên thân thể; có người cà khoét răng<ref>có lẽ là tục mài nhuộm răng?</ref>. Tiếng nói kỳ lạ, the thé như trêu chọc; dáng vẻ gian trá, mắt láo liên. Trong số đó, những điều kỳ lạ nhất là: nằm mà khiến đầu bay đi<ref>có lẽ nói đến truyền thuyết Ma lai hay Krasue là hồn ma hiếm hoi xuất hiện trong văn hóa dân gian của nhiều quốc gia Đông Nam Á. Trong truyền thuyết, ma lai là lời nguyền ám lên một người phụ nữ. Mỗi khi đêm về, chiếc đầu cùng nội tạng của chúng tách ra và bay lơ lửng trong không khí với cơn thèm khát máu vô tận.</ref>, uống thì dùng mũi để tiếp nhận; lấy da báo quấn thân, dùng mai rùa che mình. Giã sợi gỗ làm áo lông (người Lạo thường mặc vỏ cây, giã kỹ thì giống như bông tơ); người ta lợp nhà bằng cây tre trúc trông như cánh chim. Khi sinh con và nuôi dưỡng thì vợ chồng thay nhau chịu gian khó; khi trưởng thành thì cha con tranh nhau làm kẻ mạnh. Tuy đôi khi có người phiên dịch để thông hiểu, nhưng phong tục nơi đây không có nghề trồng dâu nuôi tằm. Chỉ dệt vải hẹp với nhiều màu sắc pha tạp, phần lớn mặc áo ngắn, cổ chéo. Có người không may áo mà mặc một tấm vải liền, không ăn hạt thóc mà vẫn sống<ref>ý nói không ăn gạo thóc</ref>; khi có người chết thì không để tang, cưới hỏi không cần mai mối; ra trận thì dùng dao lớn để xung phong, khi bệnh thì không có thuốc men. Họ dựa vào địa thế hiểm trở, mỗi nơi đều có người đứng đầu tự xưng là tù trưởng, hào trưởng. Từ thời Hán cho đến cuối đời Tùy, tai họa biên cương liên tiếp nổi lên, nhiều lần phải điều binh chinh phạt nơi xa. Khi tướng quân [[w:Mã Viện|Mã Viện]] dựng trụ đồng trở về, đã phân định ranh giới từng tấc đất; sử dụng lại con cháu để cai quản, vùng ven biển tạm yên. Đến đầu niên hiệu Hàm Thông 咸通<ref>niên hiệu của Đường Ý Tông 唐懿宗, 860-874</ref>, tin nổi loạn truyền về, đại tướng tử trận<ref>Tháng 11 Âm Lịch năm 860, Đường Ý Tông đổi niên hiệu thành Hàm Thông năm thứ nhất, xá thiên hạ. Trong những năm này, quân Nam Chiếu liên tục quấy phá vào vùng biên, ban đầu Nam Chiếu liên kết với người dân nổi dậy ở An Nam đô hộ phủ công phá quận Giao chỉ, Đô hộ Lý Vũ phải bỏ trốn. Mãi đến giữa năm 861, triều đình phái Vương Khoan là Kinh lược sứ cùng với thổ quân của Lý Vũ hợp sức mới bình dẹp được. Nhưng ngay sau đó, Nam Chiếu lại tấn công vào Ung châu và bao vây nơi này. Sang năm 862, Nam Chiếu lại tấn công vào An Nam một lần nữa. Triều đình phải ra lệnh cho Thái Tập dẫn 30.000 quân tới giải nguy cho An Nam thì người Man mới tạm lui.</ref>. Chim cú kêu nơi đất diều bay, lợn rống trên đường buộc ngựa. Muốn diệt kẻ hung ác như bóp cổ cho hả giận, muốn cứu người chìm đắm thì chỉ mong có tay kéo lên. Tiên đế<ref> Đường Ý Tông</ref> đã cử Yên công [Cao Biền] – nay là Thái úy trấn giữ vùng Hoài Hải 淮海太尉燕公<ref>Hoài Hải thái úy tức là Cao Biền 高駢, còn có các tên tự khác là Thiên Lý 千里, Lạc Điêu thị ngự 落雕侍御, Cao Thái úy 高太尉, Cao vương 高王, tước Yên quốc công 燕国公, Bột Hải quận vương 渤海郡王, một nhân vật chính trị, người đầu tiên trở thành Tiết độ sứ của trị sở Tĩnh Hải quân trong lịch sử Việt Nam. Cao Biền nổi tiếng là thầy phong thủy, đã trấn yểm nhiều long mạch nước ta</ref> – người từng uy danh vang dội nơi đại mạc, chính sự hòa hợp ở kinh đô (khi ấy [Cao Biền] công đang phòng thủ thành Tần, dẹp yên giặc dữ, vừa trở về triều thì được cử đi trấn thủ An Nam). Ngài xin ra trấn giữ Long Biên, lập thân bằng mưu lược như báo, tiêu diệt bọn khắc mình như đập trứng, cứu dân đen khiến họ được no đủ. Dựng lại thành lũy chỉ bằng một hiệu lệnh, mở rộng cương vực đến muôn dặm. Kẻ sâu mọt đều bị trừ, người oan khuất đều được giải. (Chẳng hạn như Chu Đạo Cổ 朱道古 làm loạn bên ngoài, Đỗ Tồn Lăng 杜存淩 tàn ác bên trong, đều là tai họa lớn của An Nam. Công đã tiêu diệt sạch không để sót, nên cố lệnh công Toại Lương 遂良 phải trốn chết ở Nhật Nam, con cháu tiêu vong, [Cao Biền] công khi ấy đã dâng biểu rửa sạch nỗi oan.) Sau đó khiến thần sấm thần sét mở đường cho ngoại bang vào triều cống; núi linh sông thiêng lặng sóng biển lớn, ánh mặt trời chiếu rọi (An Nam nhờ cửa Cát Khẩu mà tiếp nhận uy trời, công lao thần thánh lan truyền khắp nơi). Nhờ vậy mà chặn đứng được gián điệp man di từ phương Bắc, giảm bớt việc quân Hán phải trấn giữ phương Nam. Rồi chim phượng truyền chiếu triệu, thuyền chim yến chở đường về; đến cả bọn Lạo rừng, Man biển cũng đều say ân nghĩa, no đạo lý, xa xôi cũng hướng về triều đình, xin lập sinh từ để thờ. Như vậy đủ thấy nơi nào có chính sự tốt đẹp thì dù là phương xa cũng có thể cảm hóa. Đã thấy ngựa như dê mà không lấy, thì dù kiến to như voi cũng chẳng có gì đáng sợ. Đủ để chứng minh rằng: khi bốn phương không thần phục, là do chín châu chưa được người xứng đáng cai quản. Có viên quan quân đội tên là Ngô Giáng 吳降 từng thu thập những điều này thành sách, gọi là “Lục Dị” 錄異, lời tựa viết rằng: “Lâu nay quan sát các phiên bang xa xôi, tận mắt thấy hình dạng khác lạ, tự tay ghi lại sự việc.” Như vậy là truyền điều chân thực, lấy từ điều chân thực. Đọc xong những lời trước, lui lại mà than rằng: cái gọi là điều kỳ lạ của kẻ ngu này, chẳng qua là khác với cái mà người đời cho là kỳ lạ. Trong trời đất này, có vật gì lại bị bỏ đi? Như thịt chuột nặng vạn cân, râu tôm dài một trượng, đã biết là sản vật phương Nam phương Bắc, thì vĩnh viễn không còn nghi ngờ xưa nay nữa. Vậy thì tính loài thú chia theo bầy, tiếng loài chim tụ theo loại, thật chẳng có gì lạ. Gần đây Thái úy Yên công [Cao Biền] được ba lần mời mà nhận chức, dùng sáu kế lạ khiến kẻ hung hãn phải quy phục, biên cương yên ổn. Nay Thánh thượng đi tuần phương, được các nước chư hầu dâng biểu quy thuận, không dám để miệng sủa của bọn Nghiêu làm loạn, mãi mãi trừ được mối lo trong lòng người Hạ. Tất cả là nhờ Yên công thu phục Giao Châu, trấn giữ Thục Thiệu, uy danh vang dội khiến yêu quái phải chạy trốn, công thành nơi thành đồng hào nước. Đó là người có tài nhìn xa trông rộng, biết trước việc chưa xảy ra, chỉ một hơi thở đã khiến âm dương biến hóa, một cái chỉ tay khiến thần quỷ kinh hồn. Thật là công việc của trời, mà người thay trời làm nên – đó mới thật là điều kỳ lạ vậy. Nay xin bổ sung điều còn thiếu, dám gửi lại cho đời sau. Khi ấy là năm thứ ba Thánh giá tuần du đất Thục. {{Chú thích cuối trang}} ---- ;Nguồn * 本文寫於唐僖宗中和二年(882年),收錄在崔致遠《桂苑筆耕集》卷十六。 Bản văn tả vu Đường Hi Tông trung hòa nhị niên 882 niên ), thu lục tại Thôi Trí Viễn 《 quế uyển bút canh tập 》 quyển thập lục . {{PD-old}} [[Thể loại:Tác giả Triều Tiên]] [[Thể loại:Tác giả thời Đường]] [[zh:補安南錄異圖記]] 5xeht3haw2rekf8sc6q7twq7eygq4cx 195840 195839 2025-06-19T11:57:56Z Mrfly911 2215 /* Ghi chép bổ sung về những hình ảnh kỳ lạ ở An Nam */ 195840 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 補安南錄異圖記 - Bổ An Nam lục dị đồ ký | tác giả = Thôi Trí Viễn | dịch giả = | năm = 882 | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Học giả Thôi Trí Viễn (857-?) (崔致遠 - 최치원 - Choe Chiwon), một người Triều Tiên du học và làm quan thời nhà Đường, đã viết sách "Bổ An Nam lục dị đồ ký" (補安南錄異圖記) vào năm 882. Thôi Trí Viễn có quan hệ với quan đô hộ phủ An Nam là Cao Biền. Sách "Bổ An Nam lục dị đồ ký" của ông viết về các vấn đề địa lý, phong tục ở An Nam đô hộ phủ. Đây có lẽ là quyển sách cổ nhất mà người Triều Tiên viết về Việt Nam. }} {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 交趾四封,圖經詳矣。然而管多生獠,境邇諸蕃,略採俚譚,用標方誌。安南之為府也,巡屬一十二郡(峰、驩、演、愛、陸、長郡、諒、武定、武安、蘇、茂、虞林),羈縻五十八州,府城東至南溟四百餘里,有山橫亙,千里而遙,邃穴深岩,為獠窟宅。蠻蜑之衆,六種星居。鄰諸蕃二十一區,管生獠二十一輩。水之西南則通闍婆、大食之國,陸之西北則接女國、烏蠻之路,曾無亭堠,莫審塗程。跂履者計日指期,沉浮者占風定信。二十一國雞犬傳聲,服食所宜,大較相類。管內生獠,多號山蹄,或被髮鏤身,或穿胸鑿齒,詭音嘲哳,奸態睢盱。其中尤異者,臥使頭飛,飲於鼻受,豹皮裹體,龜殼蔽形。搗木絮而為裘(獠子多衣木皮,熟搗有如纖纊),編竹苫而作翅。生養則夫妻代患,長成則父子爭雄。縱時有傳譯可通,亦俗無桑蠶之業。唯織雜彩狹布,多披短襟交衫。或有不縫而衣,不粒而食,死喪無服,嫁娶不媒,戰有排刀,病無藥餌。固恃險阻,各稱酋豪。遠自漢朝,迄於隋季,薦興邊患,頗役遐征。馬將軍標柱歸時,寸分地界;史總管倒碑過後,略靜海隅。洎咸通初,驃信挺災,元戎喪律。鴟嘯於跕鳶之地,豕豗於束馬之塗。摧兇欲快於摏喉,拯溺唯思於援手。先帝以今淮海太尉燕公,威宣大漠,政洽上都(時公防禦秦城,剗平醜虜,才歸輦下,出鎮安南),乃請出鎮龍編,立身豹略,剗雕題而卵碎,活黔首以肌豐。複壁壘於一麾,拔封疆於萬里。有蠹皆削,無冤不伸(朱道古稔奸於外,杜存淩恣虐於內,皆為安南巨患。公乃誅滅無遺,故禇令公遂良竄歿日南,子孫彫零,公時表洗雪)。然後使電母雷公,鑿外域朝天之路;山靈水若,偃大洋沃日之波(安南經岝口天威,神功所開,播在遠邇)。遂得絕蠻諜之北窺,紆漢軍之南戍。乃鳳傳徵詔,鷁泛歸程,至於洞獠海蠻,莫不醉恩飽義,遠投聖闕,請建生祠。則知善政所行,殊方可誘。既見馬如羊而不取,縱令蟻若象而何虞。足以驗四夷之時或不賓,九牧之任不得所也。有柔遠軍從事吳降嘗集是圖,名曰《錄異》,敘云:久觀遐蕃,目擊殊形,手題本事。然則信以傳信,斯焉取斯。既閱前詞,退而歎曰:愚之所以為異者,其諸異乎人之所異,曰六合之內,何物則棄。至如鼠肉萬斤,鰕鬂一丈,既知南北所產,永釋古今之疑。則彼獸性群分,鳥聲類聚,誠不足異也。頃太尉燕公受三顧恩,用六奇計,使獷悍歸服,邊陲晏然。今聖上省方,蒙王獻款,不敢弄吠堯之口,永能除猾夏之心。皆由燕公收交州,鎮蜀邵,威振於奔魑走魅,功成於金壘湯池。所謂藴先見之能,察未來之事,呼吸而陰陽不測,指蹤而神鬼交馳。實為天工,人其代之,斯實可為異矣。聊補所闕,敢貽將來。時翠華幸蜀之三載也。 </poem> | <poem> Giao Chỉ tứ phong , đồ kinh tường hĩ . nhiên nhi quản đa sinh lão , cảnh nhĩ chư phiền , lược thải lý đàm , dụng tiêu phương chí. An Nam chi vi phủ dã, tuần thuộc thập nhị quận (Phong, Hoan, Diễn, Ái, Lục, Trường Quận, Lạng, Vũ Định, Vũ An, Tô, Mậu, Ngu Lâm), ki mi ngũ thập bát châu, phủ thành đông chí Nam Minh tứ bách dư lý, hữu sơn hoành ngân, thiên lý nhi diêu, túy huyệt thâm nham, vi Lạo quật trạch. Man đản chi chúng , lục chủng tinh cư . lân chư phiền nhị thập nhất khu , quản sinh lão nhị thập nhất bối . Thủy chi tây nam tắc thông đồ bà, đại thực chi quốc , lục chi tây bắc tắc tiếp nữ quốc 、 ô man chi lộ , tằng vô đình hậu , mạc thẩm đồ trình . kỳ lý giả kế nhật chỉ kỳ , trầm phù giả chiêm phong định tín, Nhị thập nhất quốc kê khuyển truyện thanh , phục thực sở nghi , đại giác tương loại . quản nội sinh lão , đa hào sơn đề , hoặc bị phát lũ thân , hoặc xuyên hung tạc xỉ , quỷ âm trào triết , gian thái tuy hu. Kỳ trung vưu dị giả , ngọa sử đầu phi , ẩm vu tị thụ , báo bì khỏa thể , quy xác tế hình . đảo mộc nhứ nhi vi cừu ( lão tử đa y mộc bì , thục đảo hữu như tiêm khoáng ), biên trúc thiêm nhi tác sí . sinh dưỡng tắc phu thê đại hoạn , trường thành tắc phụ tử tranh hùng . Túng thì hữu truyện dịch khả thông , diệc tục vô tang tàm chi nghiệp . duy chức tạp thải hiệp bố , đa phi đoản khâm giao sam . hoặc hữu bất phùng nhi y , bất lạp nhi thực , tử tang vô phục , giá thú bất môi , chiến hữu bài đao , bệnh vô dược nhị. cố thị hiểm trở , các xưng tù hào . viễn tự hán triêu , hất vu tùy quý , tiến hưng biên hoạn , pha dịch hà chinh . mã tương quân tiêu trụ quy thì , thốn phân địa giới ; sử tổng quản đảo bi quá hậu , lược tĩnh hải ngung. Kịp hàm thông sơ , phiếu tín đĩnh tai , nguyên nhung tang luật . si khiếu vu thiếp diên chi địa , thỉ hôi vu thúc mã chi đồ . tồi hung dục khoái vu thung hầu , chửng nịch duy tư vu viên thủ. Tiên đế dĩ kim hoài hải thái úy yến công , uy tuyên đại mạc , chính hiệp thượng đô ( thì công phòng ngữ tần thành , sản bình xú lỗ , tài quy liễn hạ , xuất trấn an nam ) , nãi thỉnh xuất trấn long biên , lập thân báo lược , sản điêu đề nhi noãn toái , hoạt kiềm thủ dĩ cơ phong . phức bích lũy vu nhất huy , bạt phong cương vu vạn lý . hữu đố giai tước , vô oan bất thân ( chu đạo cổ nhẫm gian vu ngoại , đỗ tồn lăng tứ ngược vu nội , giai vi an nam cự hoạn . công nãi tru diệt vô di , cố 禇 lệnh công toại lương thoán một nhật nam , tử tôn điêu linh , công thì biểu tẩy tuyết). Nhiên hậu sử điện mẫu lôi công , tạc ngoại vực triêu thiên chi lộ ; sơn linh thủy nhược , yển đại dương ốc nhật chi ba ( an nam kinh 岝 khẩu thiên uy , thần công sở khai , bá tại viễn nhĩ ) . toại đắc tuyệt man điệp chi bắc khuy , hu hán quân chi nam thú . Nãi phượng truyện trưng chiếu , nghịch phiếm quy trình , chí vu động lão hải man , mạc bất túy ân bão nghĩa , viễn đầu thánh khuyết , thỉnh kiến sinh từ . tắc tri thiện chính sở hành , thù phương khả dụ . ký kiến mã như dương nhi bất thủ , túng lệnh nghĩ nhược tượng nhi hà ngu . túc dĩ nghiệm tứ di chi thì hoặc bất tân , cửu mục chi nhâm bất đắc sở dã. hữu nhu viễn quân tòng sự ngô hàng thường tập thị đồ , danh viết 《 lục dị 》 , tự vân : cửu quan hà phiền , mục kích thù hình , thủ đề bản sự . nhiên tắc tín dĩ truyện tín , tư yên thủ tư . ký duyệt tiền từ , thối nhi thán viết : ngu chi sở dĩ vi dị giả , kỳ chư dị hồ nhân chi sở dị , viết lục hợp chi nội , hà vật tắc khí . chí như thử nhục vạn cân , hà 鬂 nhất trượng , ký tri nam bắc sở sản , vĩnh thích cổ kim chi nghi . tắc bỉ thú tính quần phân , điểu thanh loại tụ , thành bất túc dị dã . khoảnh thái úy yến công thụ tam cố ân , dụng lục kỳ kế , sử quánh hãn quy phục , biên thùy yến nhiên . kim thánh thượng tỉnh phương , mông vương hiến khoản , bất cảm lộng phệ nghiêu chi khẩu , vĩnh năng trừ hoạt hạ chi tâm . giai do yến công thu giao châu , trấn thục thiệu , uy chấn vu bôn si tẩu mị , công thành vu kim lũy thang trì . sở vị 藴 tiên kiến chi năng , sát vị lai chi sự , hô hấp nhi âm dương bất trắc , chỉ tung nhi thần quỷ giao trì . thực vi thiên công , nhân kỳ đại chi , tư thực khả vi dị hĩ . liêu bổ sở khuyết , cảm di tương lai . thì thúy hoa hạnh thục chi tam tái dã . </poem> |} ==Dịch nghĩa== ===Ghi chép bổ sung về những hình ảnh kỳ lạ ở An Nam=== Vùng Giao Chỉ bốn phía đã được ghi chép rõ ràng trong các sách địa lý. Tuy nhiên, nơi đây cai quản nhiều người Lạo 䝤 sinh sống<ref>生䝤 (生獠): Sinh liêu chỉ dân cư không sống ở các khu thành (thị dân). 獠 Liêu là từ vốn chỉ các tộc người phân bố ở khu vực phía Nam Trung Quốc như Quảng Đông, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu.</ref>, lại giáp ranh với các nước phiên bang<ref>諸蕃 (诸蕃): Chư phiên - chỉ các bộ lạc sống rải rác khu vực biên giới</ref>, nên có lược ghi lại những lời truyền miệng dân gian để bổ sung vào sách địa chí. An Nam là phủ (An Nam đô hộ phủ), có 12 quận: * Phong 峰 [Châu]<ref>Vốn là quận Tân Hưng thời thuộc Ngô và Tân Xương thời thuộc Tấn. Tùy Dạng Đế bỏ và nhập vào quận Giao Chỉ. Năm 621 [Đường Cao Tổ] đặt lại Phong Châu</ref> * Hoan 驩 [ Châu]<ref>Tức quận Nhật Nam thời thuộc Tùy. Năm 622, [Đường Cao Tổ] lập ra Nam Đức châu tổng quản phủ, lĩnh 8 châu: Đức, Minh, Trí, Hoan, Lâm, Nguyên, Cảnh, Hải. Năm 624 lại đổi là Đức Châu. Năm 627 đổi Nam Đức châu tổng quản phủ thành Hoan Châu, còn Hoan Châu cũ [1 trong 8 châu cũ thuộc Nam Đức châu tổng quản phủ] thành Diễn Châu. Năm 628 [Đường Thái Tông] đặt Hoan Châu đô đốc phủ, lĩnh 8 châu Hoan, Diễn, Minh, Trí, Lâm, Nguyên, Cảnh, Hải. Năm 638 bỏ 3 châu Minh, Nguyên, Hải. Năm 742, [Đường Minh Hoàng] đổi thành quận Nhật Nam như thời Tùy. Năm 758, [Đường Túc Tông] đổi lại thành Hoan Châu [như thời Đường Thái Tông].</ref> * Diễn 演 [ Châu]<ref>Vốn tên là quận Trung Nghĩa hoặc Diễn Thủy. Thời [Đường Thái Tông] bỏ. Năm 764, tách Hoan Châu ra đặt Diễn Châu. Diễn Châu được xác định là một phần huyện Hàm Hoan thời thuộc Hán, Ngô, Tấn. (Nay là miền bắc Nghệ An gồm các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn, Quỳ Châu).</ref> * Ái 愛 [ Châu]<ref>Là quận Cửu Chân thời thuộc Tùy. Năm 622 đặt thành Ái Châu gồm có 4 huyện: Cửu Chân, Tùng Nguyên, Dương Sơn, An Thuận; đồng thời đặt ở biên giới Cửu Chân 7 châu nhỏ khác là Tích Châu, Thuận Châu, Vĩnh Châu, Tư Châu, Tiền Châu, Chân Châu, Sơn Châu. Sau đó Vĩnh châu được đổi làm Đô Châu. Năm 627, [Đường Thái Tông] bỏ Đô Châu nhập vào Tiền Châu; bỏ Tư Châu và Chân Châu nhập vào Nam Lăng, lại bỏ An Châu lập huyện Long An, bỏ Sơn Châu lập huyện Kiến Sơ. Năm 742, [Đường Huyền Tông] đổi Ái Châu thành quận Cửu Chân như thời Tùy. Năm 758, [Đường Túc Tông] đổi trở lại là Ái Châu.</ref> * Lục 陸<ref>Vốn là Hoàng Châu và quận Ninh Hải thời thuộc Lương. Năm 622 đặt Ngọc Châu. Năm 628 bỏ châu, mang các huyện gộp vào Khâm Châu. Năm 675, [Đường Cao Tông] đổi lại là Lục Châu, năm 742, [Đường Huyền Tông] đổi làm quận Ngọc Sơn, năm 758 [Đường Túc Tông] đổi lại là Lục Châu như cũ. (Nay gồm một phần phía nam Khâm Châu thuộc Quảng Tây và dải đất dọc biển của tỉnh Quảng Ninh)</ref> * Trường Quận 長郡<ref>Năm 742, [Đường Huyền Tông] đổi làm quận Văn Dương, năm 758 Đường Túc Tông đổi làm Trường Châu như cũ. Trường Châu được xác định vị trí tương đương huyện Vô Công thuộc quận Cửu Chân thời thuộc Hán (nay là miền Nho Quan, Yên Khánh tỉnh Ninh Bình).</ref> * Lạng 諒<ref>có thể là Lạng Sơn?</ref> * Vũ Định 武定<ref>nay là 1 phần của Lào Cai và Vân Nam</ref> * Vũ An 武安<ref>nay là 1 phần Nam Định, Hải Phòng, Thái Bình</ref> * Tô 蘇<ref>nay thuộc Quảng Ninh, Hải Dương, 1 phần Hải Phòng</ref> * Mậu 茂<ref>nay là 1 phần của Hà Giang, Tuyên Quang</ref> * Ngu Lâm 虞林 và kiểm soát 58 châu cơ mi 羈縻<ref>Châu Ki mi là các châu bị quản lý ràng buộc lỏng lẻo. Tại An Nam đô hộ phủ có tới 58 châu Ki mi (trong đó 18 châu lệ vào Châu Phong, mới khảo được 43 Châu), người Tây Âu, người Lão, người Thoán: 1. Nam châu南州. 2. Tích châu 昔州. 3. Đông châu東州. 4. Tư Nông châu 鉏儂州 5. Lâm Tây châu 林西州 6. Long châu 龍州 (nay là huyện Long Châu khu tự trị Choang TQ, giáp Cao Bằng) 7. Môn châu 門州 8. An Đức châu 安德州 9. Quy Hóa châu 龜貨州 (nay là 1 phần Phú Thọ, Sơn La, Sơn Tây và Lào) 10. Vũ Văn châu 宇文州 11. Đô Kim châu 都今州 12. Lộc châu 祿州 (thuộc Lộc Bình, Lạng Sơn) 13. Kim Long châu 今龍州 14. Kim Quách châu 今崞州 15. Cam Đường châu 甘棠州 (nay là Lào Cai) 16. Lạng châu 諒州 (nay là Lạng Sơn và 1 phần Nam Ninh, TQ) 17. Nam Bình châu 南平州 (nay là Nam Quan và 1 phần lớn Nam Ninh, TQ) 18. Kha Phú châu 軻富州 19. Đề Thượng châu 諦上州 20. Vi châu 圍州 21. Vũ Lục châu 宇六洲 22. Tây Bình châu 西平州 23. Thượng Tư châu 上鉏州 24. Long Vũ châu 龍宇州 (nay thuộc Ngô Châu, khu dân tộc Choang, Quảng Tây) 25. Tân An châu 新安州 (nay thuộc Yên Bái) 26. Vũ Định châu 武定州 (nay là huyện Vũ Định, tỉnh Vân Nam) 27. Tư Lăng châu 思陵州 28. Phàn Đức châu 樊德州 29. Nam Đăng châu 南鐙州 (nay thuộc Văn Bàn và 1 phần Lào Cai) 30. Tây Nguyên châu 西原州 31. Tư Quách châu 思郭州 32. Thử châu 暑州 33. Dư châu 與州 34. Đức Hóa châu 德化州 35. Quận châu 郡州 36. Quy châu 媯州 37. Bình Nguyên châu 平原州 (Nay là Hòa An và 1 phần tỉnh Cao Bằng) 38. La Phục châu 羅復州 39.Lang Mang châu 郎邙州 40. Vạn Kim châu 萬今州 (Nay thuộc Hòa Bình và 1 phần Mỹ Đức) 41. Kim Bưu châu 今郵州 42. Tín châu 信州 43. Thiêm Lăng châu 僉陵州 </ref>. Từ phía Đông của phủ này đến bể Nam là hơn 400 dặm<ref>nguyên văn: 里 lý, đơn vị đo lường cổ, 1 lý khoảng 500m</ref>, có núi non nằm ngang, ngàn dặm xa xôi, hang sâu vách thẳm, là nơi cư ngụ của các tộc người. Cộng đồng người có 6 chủng sống rải rác. Các bộ tộc vùng biên lân cận có 21 khu. Vùng nước phía Tây Nam thông đến nước Đồ Bà<ref>Các nước ở khu vực quần đảo Java (Chà Và). Hoặc là Xà Bà (闍婆): Nói tắt của tên Xà Bà Bà Đạt (Saba Badal) (闍婆婆達), là tên một quốc đảo ngày nay thuộc nước Indonesia, còn có tên là Xà Bà Đạt Savadal (闍婆達).</ref> và Đại Thực<ref>Đại Thực (大食) : thường dùng chỉ đế chế Saracen (trải dài từ Syria đến Ả Rập Xe út ngày nay), tuy nhiên ở đây dùng chỉ 1 đảo quốc ở biển Đông. Tân Đường Thư (新唐書) cuốn 222 (訶陵) phần 2, Nam Man liệt truyện hạ (南蠻列傳下) có ghi: 〔大食君聞之 齎金一囊置其郊 行者輒避〕 Đại Thực quân văn chi tư kim nhất nang trí kỳ giao hành giả triếp tị Tống sử cuốn 489, phần Ngoại quốc liệt truyện (外國列傳) có ghi từ biển Đồ Bà đi thuyền buồm 5 ngày đến nước Đại Thực 汎海五日至大食國. Đại Thực cũng có thể là 1 vùng lãnh thổ A-rập theo Hồi Giáo tồn tại từ khoảng năm 632-1258, vị trí hiện tại gồm Ấn Độ, iran, iraq, và vùng Trung Đông. </ref>. Trên đất liền, hướng Tây Bắc tiếp giáp Nữ Quốc<ref>Nữ quốc ý chỉ một nước do phụ nữ làm vua, đó là tên một bộ lạc ở miền Tây Nam thời Tùy và Đường, được cho là 1 nhánh của người Khương (羌族). Hoặc cũng có thể là 1 quốc gia cổ, bây giờ là khu vực cao nguyên Thanh Hải-Tây Tạng và vùng Kashmir.</ref>, có đường đi Ô Man, chưa có vọng gác nên chưa biết rõ đường đi lối lại. Người đi đường bộ thì đếm ngày tính thời gian, người đi đường thuyền thì đoán gió hẹn nhau. Hai mươi mốt nước liền nhau, tiếng gà tiếng chó còn nghe vọng lại. Tập quán ăn mặc phần lớn tương tự nhau. Trong vùng quản hạt có người Lạo sinh sống, phần nhiều tự xưng là Sơn Đề 山蹄. Có người để tóc xõa, xăm hình lên thân thể; có người cà khoét răng<ref>có lẽ là tục mài nhuộm răng?</ref>. Tiếng nói kỳ lạ, the thé như trêu chọc; dáng vẻ gian trá, mắt láo liên. Trong số đó, những điều kỳ lạ nhất là: nằm mà khiến đầu bay đi<ref>có lẽ nói đến truyền thuyết Ma lai hay Krasue là hồn ma hiếm hoi xuất hiện trong văn hóa dân gian của nhiều quốc gia Đông Nam Á. Trong truyền thuyết, ma lai là lời nguyền ám lên một người phụ nữ. Mỗi khi đêm về, chiếc đầu cùng nội tạng của chúng tách ra và bay lơ lửng trong không khí với cơn thèm khát máu vô tận.</ref>, uống thì dùng mũi để tiếp nhận; lấy da báo quấn thân, dùng mai rùa che mình. Giã sợi gỗ làm áo lông (người Lạo thường mặc vỏ cây, giã kỹ thì giống như bông tơ); người ta lợp nhà bằng cây tre trúc trông như cánh chim. Khi sinh con và nuôi dưỡng thì vợ chồng thay nhau chịu gian khó; khi trưởng thành thì cha con tranh nhau làm kẻ mạnh. Tuy đôi khi có người phiên dịch để thông hiểu, nhưng phong tục nơi đây không có nghề trồng dâu nuôi tằm. Chỉ dệt vải hẹp với nhiều màu sắc pha tạp, phần lớn mặc áo ngắn, cổ chéo. Có người không may áo mà mặc một tấm vải liền, không ăn hạt thóc mà vẫn sống<ref>ý nói không ăn gạo thóc</ref>; khi có người chết thì không để tang, cưới hỏi không cần mai mối; ra trận thì dùng dao lớn để xung phong, khi bệnh thì không có thuốc men. Họ dựa vào địa thế hiểm trở, mỗi nơi đều có người đứng đầu tự xưng là tù trưởng, hào trưởng. Từ thời Hán cho đến cuối đời Tùy, tai họa biên cương liên tiếp nổi lên, nhiều lần phải điều binh chinh phạt nơi xa. Khi tướng quân [[w:Mã Viện|Mã Viện]] dựng trụ đồng trở về, đã phân định ranh giới từng tấc đất; sử dụng lại con cháu để cai quản, vùng ven biển tạm yên. Đến đầu niên hiệu Hàm Thông 咸通<ref>niên hiệu của Đường Ý Tông 唐懿宗, 860-874</ref>, tin nổi loạn truyền về, đại tướng tử trận<ref>Tháng 11 Âm Lịch năm 860, Đường Ý Tông đổi niên hiệu thành Hàm Thông năm thứ nhất, xá thiên hạ. Trong những năm này, quân Nam Chiếu liên tục quấy phá vào vùng biên, ban đầu Nam Chiếu liên kết với người dân nổi dậy ở An Nam đô hộ phủ công phá quận Giao chỉ, Đô hộ Lý Vũ phải bỏ trốn. Mãi đến giữa năm 861, triều đình phái Vương Khoan là Kinh lược sứ cùng với thổ quân của Lý Vũ hợp sức mới bình dẹp được. Nhưng ngay sau đó, Nam Chiếu lại tấn công vào Ung châu và bao vây nơi này. Sang năm 862, Nam Chiếu lại tấn công vào An Nam một lần nữa. Triều đình phải ra lệnh cho Thái Tập dẫn 30.000 quân tới giải nguy cho An Nam thì người Man mới tạm lui.</ref>. Chim cú kêu nơi đất diều bay, lợn rống trên đường buộc ngựa. Muốn diệt kẻ hung ác như bóp cổ cho hả giận, muốn cứu người chìm đắm thì chỉ mong có tay kéo lên. Tiên đế<ref> Đường Ý Tông</ref> đã cử Yên công [Cao Biền] – nay là Thái úy trấn giữ vùng Hoài Hải 淮海太尉燕公<ref>Hoài Hải thái úy tức là Cao Biền 高駢, còn có các tên tự khác là Thiên Lý 千里, Lạc Điêu thị ngự 落雕侍御, Cao Thái úy 高太尉, Cao vương 高王, tước Yên quốc công 燕国公, Bột Hải quận vương 渤海郡王, một nhân vật chính trị, người đầu tiên trở thành Tiết độ sứ của trị sở Tĩnh Hải quân trong lịch sử Việt Nam. Cao Biền nổi tiếng là thầy phong thủy, đã trấn yểm nhiều long mạch nước ta</ref> – người từng uy danh vang dội nơi đại mạc, chính sự hòa hợp ở kinh đô (khi ấy [Cao Biền] công đang phòng thủ thành Tần, dẹp yên giặc dữ, vừa trở về triều thì được cử đi trấn thủ An Nam). Ngài xin ra trấn giữ Long Biên, lập thân bằng mưu lược như báo, tiêu diệt bọn khắc mình như đập trứng, cứu dân đen khiến họ được no đủ. Dựng lại thành lũy chỉ bằng một hiệu lệnh, mở rộng cương vực đến muôn dặm. Kẻ sâu mọt đều bị trừ, người oan khuất đều được giải. (Chẳng hạn như Chu Đạo Cổ 朱道古 làm loạn bên ngoài, Đỗ Tồn Lăng 杜存淩 tàn ác bên trong, đều là tai họa lớn của An Nam. Công đã tiêu diệt sạch không để sót, nên cố lệnh công Toại Lương 遂良 phải trốn chết ở Nhật Nam, con cháu tiêu vong, [Cao Biền] công khi ấy đã dâng biểu rửa sạch nỗi oan.) Sau đó khiến thần sấm thần sét mở đường cho ngoại bang vào triều cống; núi linh sông thiêng lặng sóng biển lớn, ánh mặt trời chiếu rọi (An Nam nhờ cửa Cát Khẩu mà tiếp nhận uy trời, công lao thần thánh lan truyền khắp nơi). Nhờ vậy mà chặn đứng được gián điệp man di từ phương Bắc, giảm bớt việc quân Hán phải trấn giữ phương Nam. Rồi chim phượng truyền chiếu triệu, thuyền chim yến chở đường về; đến cả bọn Lạo rừng, Man biển cũng đều say ân nghĩa, no đạo lý, xa xôi cũng hướng về triều đình, xin lập sinh từ để thờ. Như vậy đủ thấy nơi nào có chính sự tốt đẹp thì dù là phương xa cũng có thể cảm hóa. Đã thấy ngựa như dê mà không lấy, thì dù kiến to như voi cũng chẳng có gì đáng sợ. Đủ để chứng minh rằng: khi bốn phương không thần phục, là do chín châu chưa được người xứng đáng cai quản. Có viên quan quân đội tên là Ngô Giáng 吳降 từng thu thập những điều này thành sách, gọi là “Lục Dị” 錄異, lời tựa viết rằng: “Lâu nay quan sát các phiên bang xa xôi, tận mắt thấy hình dạng khác lạ, tự tay ghi lại sự việc.” Như vậy là truyền điều chân thực, lấy từ điều chân thực. Đọc xong những lời trước, lui lại mà than rằng: cái gọi là điều kỳ lạ của kẻ ngu này, chẳng qua là khác với cái mà người đời cho là kỳ lạ. Trong trời đất này, có vật gì lại bị bỏ đi? Như thịt chuột nặng vạn cân, râu tôm dài một trượng, đã biết là sản vật phương Nam phương Bắc, thì vĩnh viễn không còn nghi ngờ xưa nay nữa. Vậy thì tính loài thú chia theo bầy, tiếng loài chim tụ theo loại, thật chẳng có gì lạ. Gần đây Thái úy Yên công [Cao Biền] được ba lần mời mà nhận chức, dùng sáu kế lạ khiến kẻ hung hãn phải quy phục, biên cương yên ổn. Nay Thánh thượng đi tuần phương, được các nước chư hầu dâng biểu quy thuận, không dám để miệng sủa của bọn Nghiêu làm loạn, mãi mãi trừ được mối lo trong lòng người Hạ. Tất cả là nhờ Yên công thu phục Giao Châu, trấn giữ Thục Thiệu, uy danh vang dội khiến yêu quái phải chạy trốn, công thành nơi thành đồng hào nước. Đó là người có tài nhìn xa trông rộng, biết trước việc chưa xảy ra, chỉ một hơi thở đã khiến âm dương biến hóa, một cái chỉ tay khiến thần quỷ kinh hồn. Thật là công việc của trời, mà người thay trời làm nên – đó mới thật là điều kỳ lạ vậy. Nay xin bổ sung điều còn thiếu, dám gửi lại cho đời sau. Khi ấy là năm thứ ba<ref>năm 882</ref> Thánh giá tuần du đất Thục<ref>Loạn Hoàng Sào khiến Đường Hy Tông phải chạy nạn vào đất Thục năm 879. Cao Biền và Thôi Trí Viễn là các quan hỗ trợ đắc lực cho Hy Tông giai đoạn này.</ref>. {{Chú thích cuối trang}} ---- ;Nguồn * 本文寫於唐僖宗中和二年(882年),收錄在崔致遠《桂苑筆耕集》卷十六。 Bản văn tả vu Đường Hi Tông trung hòa nhị niên 882 niên ), thu lục tại Thôi Trí Viễn 《 quế uyển bút canh tập 》 quyển thập lục . {{PD-old}} [[Thể loại:Tác giả Triều Tiên]] [[Thể loại:Tác giả thời Đường]] [[zh:補安南錄異圖記]] gasztetd1wfa2cwcimhotb1araiam7u Lữ ngụ An Nam 0 21214 195774 54084 2025-06-19T03:23:53Z Mrfly911 2215 Dùng Copilot dịch. 195774 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 旅寓安南 - Lữ ngụ An Nam | tác giả = Đỗ Thẩm Ngôn | dịch giả = | năm = | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Đỗ Thẩm Ngôn (645–708) (杜審言) là một trong những nhà thơ thời Đường có thơ được trích trong sách [[w:Đường thi tam bách thủ|Đường thi tam bách thủ]] (chữ Hán phồn thể: 唐詩三百首). Ông là ông nội của nhà thơ [[w:Đỗ Phủ|Đỗ Phủ]]. }} {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 交趾殊風候,寒遲暖復催。 仲冬山果熟,正月野花開。 積雨生昏霧,輕霜下震雷。 故鄉踰萬里,客思倍從來。 </poem> | <poem> Giao Chỉ thù phong hậu , hàn trì noãn phục thôi . Trọng đông sơn quả thục , chính nguyệt dã hoa khai . Tích vũ sinh hôn vụ , khinh sương hạ chấn lôi . Cố hương du vạn lý , khách tư bội tòng lai . </poem> |} == Dịch nghĩa == === Bản dịch 1 === 交趾殊風候,寒遲暖復催。 Giao Chỉ khí hậu khác thường, rét đến muộn, ấm lại về nhanh. 仲冬山果熟,正月野花開。 Giữa đông quả núi đã chín, tháng Giêng hoa dại nở đầy. 積雨生昏霧,輕霜下震雷。 Mưa dầm sinh sương mù dày, sương nhẹ mà sấm động vang trời. 故鄉踰萬里,客思倍從來。 Quê nhà xa vạn dặm, nỗi nhớ khách ly hương càng thêm da diết. === Bản dịch 2 === Giao Chỉ phong lạ trời riêng, Rét về chậm bước, nắng nghiêng sớm chiều. Giữa đông quả núi chín nhiều, Tháng Giêng hoa dại nở đều ven sông. Mưa dầm sương phủ mịt mùng, Sấm vang giữa lúc sương lồng nhẹ bay. Quê xưa muôn dặm xa bay, Lòng người viễn xứ càng day dứt lòng. === Bản dịch 3 === Giao Chỉ phong trời khác chốn quen, Rét về chậm bước, ấm mau chen. Giữa đông quả chín trên sườn núi, Tháng Giêng hoa nở khắp đồng ven. Mưa dầm phủ kín làn sương đục, Sấm động vang trời giữa sương mềm. Vạn dặm cố hương mờ bóng núi, Khách ly càng nhớ gấp trăm thêm. ---- Nguồn: * 全唐詩·卷062 [[Toàn Đường thi]], quyển 062. {{PD-old}} [[Thể loại:Thơ Trung Quốc]] [[zh:旅寓安南]] tizsmc90h4qeiujxj2xbfxz9e7z3un7 Bình An Nam chiếu 0 21217 195782 147603 2025-06-19T06:31:49Z Mrfly911 2215 195782 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 平安南詔 - Bình An Nam chiếu | tác giả = Minh Thành Tổ | dịch giả = | năm = 1407 | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Ngày 5 tháng 7 năm 1407, Minh Thành Tổ (Chu Lệ) sau khi xuất binh tiến đánh nước An Nam do nhà Hồ đang nắm quyền, ban chiếu bố cáo thiên hạ. }} ---- {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! &nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 朕祇奉皇圖,恪尊成憲,弘敷至化,期四海之樂,永保太和,俾萬物之咸遂,夙夜兢業,弗敢怠遑。仰惟皇考太祖高皇帝混一天下,懷柔遠人,安南陳日煃慕義向風,率先職貢,遂封為安南王,世有其土。比者,賊臣黎季犛及子蒼弒其國主,戕及闔家,毒痛生民,怨聲載路,詭易姓名為胡一元,子為胡𡗨,隱蔽其實,詭稱陳甥,誑言陳氏絕嗣,請求襲封,朕念國人無統,聽允所云。幸成奸謀,肆無忌憚,自謂聖優三皇,德高五帝,以文武為不足法,周孔為不足師,僭國號曰大虞,紀年元聖,自稱兩宮皇帝,冒用朝廷禮儀,招納逋逃,陽奉正朔;覬覦南詔,窺伺廣西,據思明府之數州,侵寧遠州之七寨,虜其子女,毆其人民,欺占城孱弱,奪其土疆,逼與章服,要其貢賦;累使曉諭,怙惡弗悛;安南王孫奔竄來訴,稱賊謬陳誠款,請迎君之,乃伏兵要殺於途,拒辱朝使;朕遣人賜占城禮物,又劫使臣而奪之。蠢茲凶竪,積惡如山,四海之所不容,神人之所憤怒。興言至此,衋然傷懷,實不得已,是用興師,期伐罪以吊民,將興滅而繼絕,爰命總兵官征夷將軍新城侯張輔等率師八十萬討之,飛度富良,深入逆境,桓桓虎旅,威名雷霆,業業凶徒,勢如拉朽,七百萬之眾須臾而盡,二千里之國次第皆平,生擒逆賊黎季犛及子黎蒼、黎澄與其家屬,並偽將相官僚徐季貔、胡杜等,撫納降附,綏輯良善,遍求陳氏子孫立之,其國之官吏、耆老人等咸稱為黎賊殺戮已盡,無可繼承,又稱:「安南本古交州,為中國郡縣,論污夷習,及茲有年,今幸泛掃欃槍,磢剷蕪穢,原復古郡縣,與民更新。」朕俯徇輿情,人其所請,置交址都指揮使司、交址等處承宣布政使司、交址等處提刑按察使司及軍民衙門,設官分理,廓清海徼之妖氛,變革遐邦之舊俗,所有合行事宜,條列於後,安南王陳氏為黎賊所弒,死於非命,宜與贈謚,慰其幽冥;其子孫宗族有為黎賊所害者,宜贈以官,有司皆具名來聞。陳氏子孫既為黎賊盡戮,宗祀廢絕,有司宜與建祠,其墳墓蕪廢,宜與修治,祠墳各給民三十戶供祭掃。安南官吏軍民人等為黎賊驅迫死亡者眾,暴露可憫,有司即為埋瘞。安南郡縣官吏皆陳氏舊人,為黎賊威脅,本非得已,詔書到日,凡在職役者悉仍其舊。然民久染夷俗,宜設官兼治,教以中國禮法。黎賊數年以來,為政若猛,毒虐其民,今悉廢除之,宣布朝廷政令,以安眾庶。安南各處關隘,有結聚人民守把營寨及逃避海島者,詔書到日,即便解散。其民罹黎賊困苦已久,有司宜善撫恤,使安生業,無致失所。其官吏軍民有為黎賊所害,或黥刺徒配,或全家流徙不得其所,及一應被害之人,詔書到日,悉放回原籍復業,所在有司即便起發,毋得停留。其有囚繫於獄者,即時放遣。安南境內凡有高年碩德,有司即加禮待。及鰥寡孤獨之人無依倚者,為立養濟院以存恤之。有懷才抱德可用之士,有司以禮敦遣至京,量才於本土敍用。安南與占城、百夷等處接界,宜各守疆境,毋致侵越,亦不許軍民人等私通外境,私自下海販鬻番貨,違者依律治罪。於戲!威武再揚,豈予心之所欲;元惡既殛,實有眾之同情。廣施一視之仁,永樂太平之治,布告中外,咸使聞知。 </poem> | <poem> Trẫm kỳ phụng hoàng đồ, khác tôn thành hiến, hoằng phu chí hóa, kỳ tứ hải chi lạc, vĩnh bảo thái hòa, tỷ vạn vật chi hàm toại, túc dạ căng nghiệp, phất cảm đãi hoàng. Ngưỡng duy Hoàng khảo Thái Tổ Cao Hoàng đế<ref>Tức [[w:Minh Thái Tổ|Minh Thái Tổ]]</ref> hỗn nhất thiên hạ, hoài nhu viễn nhân, An Nam Trần Nhật Khuê<ref>Tức [[Tác gia:Trần Dụ Tông|Trần Dụ Tông]]</ref> mộ nghĩa hướng phong, suất tiên chức cống, toại phong vi An Nam vương, thế hữu kỳ thổ. Bỉ giả, tặc thần Lê Quý Ly cập tử Thương<ref>Tức cha con [[Tác gia:Hồ Quý Ly|Hồ Quý Ly]] và [[w:Hồ Hán Thương|Hồ Hán Thương]]</ref> thí kỳ quốc chủ, tường cập hạp gia, độc thống sinh dân, oán thanh tái lộ, quỷ dịch tính danh vi Hồ Nhất Nguyên, tử vi Hồ Đê, ẩn tế kỳ thực, quỷ xưng Trần sanh, cuống ngôn Trần thị tuyệt tự, thỉnh cầu tập phong, trẫm niệm quốc nhân vô thống, thính doãn sở vân. Hạnh thành gian mưu, tứ vô kỵ đạn, tự vị thánh ưu Tam hoàng, đức cao Ngũ đế<ref>Xem [[w:Tam Hoàng Ngũ Đế|Tam hoàng Ngũ đế]]</ref>, dĩ Văn Vũ<ref>Tức [[w:Cơ Xương|Chu Văn vương]] và [[w:Chu Vũ vương|Chu Vũ vương]]</ref> vi bất túc pháp, Chu Khổng<ref>Tức [[w:Chu công Đán|Chu công]] và [[w:Khổng Tử|Khổng Tử]]</ref> vi bất túc sư, tiếm quốc hiệu viết Đại Ngu, kỷ niên Nguyên Thánh, tự xưng lưỡng cung Hoàng đế, mạo dụng triều đình lễ nghi, chiêu nạp bô đào, dương phụng chính sóc; ký du Nam Chiếu, khuy tý Quảng Tây, cứ Tư Minh phủ chi sổ châu, xâm Ninh Viễn châu chi thất trại, lỗ kỳ tử nữ, ẩu kỳ nhân dân, khi Chiêm Thành sàn nhược, đoạt kỳ thổ cương, bức dữ chương phục, yếu kỳ cống phú; luy sử hiểu dụ, hỗ ác phất thuân; An Nam vương tôn<ref>Tức [[w:Trần Thiêm Bình|Trần Thiêm Bình]]</ref> bôn thoán lai tố, xưng tặc mậu trần thành khoản, thỉnh nghênh quân chi, nãi phục binh yếu sát ư đồ, cự nhục triều sứ; trẫm khiển nhân tứ Chiêm Thành lễ vật, hựu kiếp sứ thần nhi đoạt chi. Xuẩn tư hung thụ, tích ác như sơn, tứ hải chi sở bất dung, thần nhân chi sở phẫn nộ. Hưng ngôn chí thử, hực nhiên thương hoài, thực bất đắc dĩ, thị dụng hưng sư, kỳ phạt tội dĩ điếu dân, tương hưng diệt nhi kế tuyệt, viên mệnh Tổng binh quan Chinh Di tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ đẳng suất sư bát thập vạn thảo chi, phi độ Phú Lương, thâm nhập nghịch cảnh, hoàn hoàn hổ lữ, uy danh lôi đình, nghiệp nghiệp hung đồ, thế như lạp hủ, thất bách vạn chi chúng tu du nhi tận, nhị thiên lý chi quốc thứ đệ giai bình, sinh cầm nghịch tặc Lê Quý Ly cập tử Lê Thương, Lê Trừng<ref>Tức [[Tác gia:Hồ Nguyên Trừng|Hồ Nguyên Trừng]]</ref> dữ kỳ gia thuộc, tịnh ngụy tướng tương quan liêu Từ Quý Tỳ<ref>Tức Hồ Quý Tỳ, em ruột Hồ Quý Ly</ref>, Hồ Đỗ đẳng, phủ nạp hàng phụ, tuy tập lương thiện, biến cầu Trần thị tử tôn lập chi, kỳ quốc chi quan lại, kỳ lão nhân đẳng hàm xưng vi Lê tặc sát lục dĩ tận, vô khả kế thừa, hựu xưng: "An Nam bản cổ Giao Châu, vi Trung Quốc quận huyện, luận ô di tập, cập tư hữu niên, kim hạnh phiếm tảo sàm thương, sưởng sản vu uế, nguyên phục cổ quận huyện, dữ dân canh tân". Trẫm phủ tuẫn dư tình, nhân kỳ sở thỉnh, trí Giao Chỉ Đô chỉ huy sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Thừa tuyên Bố chính sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Đề hình Án sát sứ ti, cập quân dân nha môn, thiết quan phân lý, khuếch thanh hải kiếu chi yêu phân, biến cách hà bang chi cựu tục, sở hữu hợp hành sự nghi, điều liệt ư hậu, An Nam vương Trần thị vi Lê tặc sở thí, tử ư phi mệnh, nghi dữ tặng thụy, úy kỳ u minh; kỳ tử tôn tông tộc hữu vi Lê tặc sở hại giả, nghi tặng dĩ quan, hữu ti giai cụ danh lai văn. Trần thị tử tôn ký vi Lê tặc tận lục, tông tự phế tuyệt, hữu ti nghi dữ kiến từ, kỳ phần mộ vu phế, nghi dữ tu trì, từ phần các cấp dân tam thập hộ cung tế tảo. An Nam quan lại quân dân nhân đẳng vi Lê tặc khu bách tử vong giả chúng, bạo lộ khả mẫn, hữu ti tức vi mai ế. An Nam quận huyện quan lại giai Trần thị cựu nhân, vi Lê tặc uy hiếp, bản phi đắc dĩ, chiếu thư đáo nhật, phàm tại chức dịch giả tất nhưng kỳ cựu. Nhiên dân cửu nhiễm di tục, nghi thiết quan kiêm trị, giáo dĩ Trung Quốc lễ pháp. Lê tặc sổ niên dĩ lai, vi chính nhược mãnh, độc ngược kỳ dân, kim tất phế trừ chi, tuyên bố triều đình chính lệnh, dĩ an chúng thứ. An Nam các xứ quan ải, hữu kết tụ nhân dân thủ bả doanh trại cập đào tị hải đảo giả, chiếu thư đáo nhật, tức tiện giải tán. Kỳ dân ly Lê tặc khốn khổ dĩ cửu, hữu ti nghi thiện phủ tuất, sử an sinh nghiệp, vô trí thất sở. Kỳ quan lại quân dân hữu vi Lê tặc sở hại, hoặc kình thứ đồ phối, hoặc toàn gia lưu tỷ bất đắc kỳ sở, cập nhất ứng bị hại chi nhân, chiếu thư đáo nhật, tất phóng hồi nguyên tịch phục nghiệp, sở tại hữu ti tức tiện khởi phát, vô đắc đình lưu. Kỳ hữu tù hệ ư ngục giả, tức thì phóng khiển. An Nam cảnh nội phàm hữu cao niên thạc đức, hữu ti tức gia lễ đãi. Cập quan quả cô độc chi nhân vô y ỷ giả, vi lập Dưỡng tế viện dĩ tồn tuất chi. Hữu hoài tài bão đức khả dụng chi sĩ, hữu ti dĩ lễ đôn khiển chí kinh, lượng tài ư bản thổ tự dụng. An Nam dữ Chiêm Thành, bách di đẳng xứ tiếp giới, nghi các thủ cương cảnh, vô trí xâm việt, diệc bất hứa quân dân nhân đẳng tư thông ngoại cảnh, tư tự hạ hải phiến dục phiên hóa, vi giả y luật trị tội. Ô hô! Uy vũ tái dương, khởi dư tâm chi sở dục; nguyên ác ký cức, thực hữu chúng chi đồng tình. Quảng thi nhất thị chi nhân, Vĩnh Lạc<ref>Niên hiệu của [[Tác gia:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]]</ref> thái bình chi trị, bố cáo trung ngoại, hàm sử văn tri. </poem> |} ==Dịch nghĩa== {{chú thích cuối trang}} ---- Xem thêm bản tiếng Anh: * Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/entry/1104, accessed July 11, 2016. {{PD-old}} [[Thể loại:Văn học Trung Quốc]] [[Thể loại:Chiếu]] r377lqb848sxewn87w3vlelyc74zv4r 195783 195782 2025-06-19T06:33:17Z Mrfly911 2215 195783 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 平安南詔 - Bình An Nam chiếu | tác giả = Minh Thành Tổ | dịch giả = | năm = 1407 | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Ngày 5 tháng 7 năm 1407 (Âm lịch: ngày mồng 1 tháng 6 âm lịch năm Vĩnh Lạc thứ 5, tức ngày Quý Mùi), Minh Thành Tổ (Chu Lệ) sau khi xuất binh tiến đánh nước An Nam do nhà Hồ đang nắm quyền, ban chiếu bố cáo thiên hạ. }} ---- {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! &nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 朕祇奉皇圖,恪尊成憲,弘敷至化,期四海之樂,永保太和,俾萬物之咸遂,夙夜兢業,弗敢怠遑。仰惟皇考太祖高皇帝混一天下,懷柔遠人,安南陳日煃慕義向風,率先職貢,遂封為安南王,世有其土。比者,賊臣黎季犛及子蒼弒其國主,戕及闔家,毒痛生民,怨聲載路,詭易姓名為胡一元,子為胡𡗨,隱蔽其實,詭稱陳甥,誑言陳氏絕嗣,請求襲封,朕念國人無統,聽允所云。幸成奸謀,肆無忌憚,自謂聖優三皇,德高五帝,以文武為不足法,周孔為不足師,僭國號曰大虞,紀年元聖,自稱兩宮皇帝,冒用朝廷禮儀,招納逋逃,陽奉正朔;覬覦南詔,窺伺廣西,據思明府之數州,侵寧遠州之七寨,虜其子女,毆其人民,欺占城孱弱,奪其土疆,逼與章服,要其貢賦;累使曉諭,怙惡弗悛;安南王孫奔竄來訴,稱賊謬陳誠款,請迎君之,乃伏兵要殺於途,拒辱朝使;朕遣人賜占城禮物,又劫使臣而奪之。蠢茲凶竪,積惡如山,四海之所不容,神人之所憤怒。興言至此,衋然傷懷,實不得已,是用興師,期伐罪以吊民,將興滅而繼絕,爰命總兵官征夷將軍新城侯張輔等率師八十萬討之,飛度富良,深入逆境,桓桓虎旅,威名雷霆,業業凶徒,勢如拉朽,七百萬之眾須臾而盡,二千里之國次第皆平,生擒逆賊黎季犛及子黎蒼、黎澄與其家屬,並偽將相官僚徐季貔、胡杜等,撫納降附,綏輯良善,遍求陳氏子孫立之,其國之官吏、耆老人等咸稱為黎賊殺戮已盡,無可繼承,又稱:「安南本古交州,為中國郡縣,論污夷習,及茲有年,今幸泛掃欃槍,磢剷蕪穢,原復古郡縣,與民更新。」朕俯徇輿情,人其所請,置交址都指揮使司、交址等處承宣布政使司、交址等處提刑按察使司及軍民衙門,設官分理,廓清海徼之妖氛,變革遐邦之舊俗,所有合行事宜,條列於後,安南王陳氏為黎賊所弒,死於非命,宜與贈謚,慰其幽冥;其子孫宗族有為黎賊所害者,宜贈以官,有司皆具名來聞。陳氏子孫既為黎賊盡戮,宗祀廢絕,有司宜與建祠,其墳墓蕪廢,宜與修治,祠墳各給民三十戶供祭掃。安南官吏軍民人等為黎賊驅迫死亡者眾,暴露可憫,有司即為埋瘞。安南郡縣官吏皆陳氏舊人,為黎賊威脅,本非得已,詔書到日,凡在職役者悉仍其舊。然民久染夷俗,宜設官兼治,教以中國禮法。黎賊數年以來,為政若猛,毒虐其民,今悉廢除之,宣布朝廷政令,以安眾庶。安南各處關隘,有結聚人民守把營寨及逃避海島者,詔書到日,即便解散。其民罹黎賊困苦已久,有司宜善撫恤,使安生業,無致失所。其官吏軍民有為黎賊所害,或黥刺徒配,或全家流徙不得其所,及一應被害之人,詔書到日,悉放回原籍復業,所在有司即便起發,毋得停留。其有囚繫於獄者,即時放遣。安南境內凡有高年碩德,有司即加禮待。及鰥寡孤獨之人無依倚者,為立養濟院以存恤之。有懷才抱德可用之士,有司以禮敦遣至京,量才於本土敍用。安南與占城、百夷等處接界,宜各守疆境,毋致侵越,亦不許軍民人等私通外境,私自下海販鬻番貨,違者依律治罪。於戲!威武再揚,豈予心之所欲;元惡既殛,實有眾之同情。廣施一視之仁,永樂太平之治,布告中外,咸使聞知。 </poem> | <poem> Trẫm kỳ phụng hoàng đồ, khác tôn thành hiến, hoằng phu chí hóa, kỳ tứ hải chi lạc, vĩnh bảo thái hòa, tỷ vạn vật chi hàm toại, túc dạ căng nghiệp, phất cảm đãi hoàng. Ngưỡng duy Hoàng khảo Thái Tổ Cao Hoàng đế<ref>Tức [[w:Minh Thái Tổ|Minh Thái Tổ]]</ref> hỗn nhất thiên hạ, hoài nhu viễn nhân, An Nam Trần Nhật Khuê<ref>Tức [[Tác gia:Trần Dụ Tông|Trần Dụ Tông]]</ref> mộ nghĩa hướng phong, suất tiên chức cống, toại phong vi An Nam vương, thế hữu kỳ thổ. Bỉ giả, tặc thần Lê Quý Ly cập tử Thương<ref>Tức cha con [[Tác gia:Hồ Quý Ly|Hồ Quý Ly]] và [[w:Hồ Hán Thương|Hồ Hán Thương]]</ref> thí kỳ quốc chủ, tường cập hạp gia, độc thống sinh dân, oán thanh tái lộ, quỷ dịch tính danh vi Hồ Nhất Nguyên, tử vi Hồ Đê, ẩn tế kỳ thực, quỷ xưng Trần sanh, cuống ngôn Trần thị tuyệt tự, thỉnh cầu tập phong, trẫm niệm quốc nhân vô thống, thính doãn sở vân. Hạnh thành gian mưu, tứ vô kỵ đạn, tự vị thánh ưu Tam hoàng, đức cao Ngũ đế<ref>Xem [[w:Tam Hoàng Ngũ Đế|Tam hoàng Ngũ đế]]</ref>, dĩ Văn Vũ<ref>Tức [[w:Cơ Xương|Chu Văn vương]] và [[w:Chu Vũ vương|Chu Vũ vương]]</ref> vi bất túc pháp, Chu Khổng<ref>Tức [[w:Chu công Đán|Chu công]] và [[w:Khổng Tử|Khổng Tử]]</ref> vi bất túc sư, tiếm quốc hiệu viết Đại Ngu, kỷ niên Nguyên Thánh, tự xưng lưỡng cung Hoàng đế, mạo dụng triều đình lễ nghi, chiêu nạp bô đào, dương phụng chính sóc; ký du Nam Chiếu, khuy tý Quảng Tây, cứ Tư Minh phủ chi sổ châu, xâm Ninh Viễn châu chi thất trại, lỗ kỳ tử nữ, ẩu kỳ nhân dân, khi Chiêm Thành sàn nhược, đoạt kỳ thổ cương, bức dữ chương phục, yếu kỳ cống phú; luy sử hiểu dụ, hỗ ác phất thuân; An Nam vương tôn<ref>Tức [[w:Trần Thiêm Bình|Trần Thiêm Bình]]</ref> bôn thoán lai tố, xưng tặc mậu trần thành khoản, thỉnh nghênh quân chi, nãi phục binh yếu sát ư đồ, cự nhục triều sứ; trẫm khiển nhân tứ Chiêm Thành lễ vật, hựu kiếp sứ thần nhi đoạt chi. Xuẩn tư hung thụ, tích ác như sơn, tứ hải chi sở bất dung, thần nhân chi sở phẫn nộ. Hưng ngôn chí thử, hực nhiên thương hoài, thực bất đắc dĩ, thị dụng hưng sư, kỳ phạt tội dĩ điếu dân, tương hưng diệt nhi kế tuyệt, viên mệnh Tổng binh quan Chinh Di tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ đẳng suất sư bát thập vạn thảo chi, phi độ Phú Lương, thâm nhập nghịch cảnh, hoàn hoàn hổ lữ, uy danh lôi đình, nghiệp nghiệp hung đồ, thế như lạp hủ, thất bách vạn chi chúng tu du nhi tận, nhị thiên lý chi quốc thứ đệ giai bình, sinh cầm nghịch tặc Lê Quý Ly cập tử Lê Thương, Lê Trừng<ref>Tức [[Tác gia:Hồ Nguyên Trừng|Hồ Nguyên Trừng]]</ref> dữ kỳ gia thuộc, tịnh ngụy tướng tương quan liêu Từ Quý Tỳ<ref>Tức Hồ Quý Tỳ, em ruột Hồ Quý Ly</ref>, Hồ Đỗ đẳng, phủ nạp hàng phụ, tuy tập lương thiện, biến cầu Trần thị tử tôn lập chi, kỳ quốc chi quan lại, kỳ lão nhân đẳng hàm xưng vi Lê tặc sát lục dĩ tận, vô khả kế thừa, hựu xưng: "An Nam bản cổ Giao Châu, vi Trung Quốc quận huyện, luận ô di tập, cập tư hữu niên, kim hạnh phiếm tảo sàm thương, sưởng sản vu uế, nguyên phục cổ quận huyện, dữ dân canh tân". Trẫm phủ tuẫn dư tình, nhân kỳ sở thỉnh, trí Giao Chỉ Đô chỉ huy sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Thừa tuyên Bố chính sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Đề hình Án sát sứ ti, cập quân dân nha môn, thiết quan phân lý, khuếch thanh hải kiếu chi yêu phân, biến cách hà bang chi cựu tục, sở hữu hợp hành sự nghi, điều liệt ư hậu, An Nam vương Trần thị vi Lê tặc sở thí, tử ư phi mệnh, nghi dữ tặng thụy, úy kỳ u minh; kỳ tử tôn tông tộc hữu vi Lê tặc sở hại giả, nghi tặng dĩ quan, hữu ti giai cụ danh lai văn. Trần thị tử tôn ký vi Lê tặc tận lục, tông tự phế tuyệt, hữu ti nghi dữ kiến từ, kỳ phần mộ vu phế, nghi dữ tu trì, từ phần các cấp dân tam thập hộ cung tế tảo. An Nam quan lại quân dân nhân đẳng vi Lê tặc khu bách tử vong giả chúng, bạo lộ khả mẫn, hữu ti tức vi mai ế. An Nam quận huyện quan lại giai Trần thị cựu nhân, vi Lê tặc uy hiếp, bản phi đắc dĩ, chiếu thư đáo nhật, phàm tại chức dịch giả tất nhưng kỳ cựu. Nhiên dân cửu nhiễm di tục, nghi thiết quan kiêm trị, giáo dĩ Trung Quốc lễ pháp. Lê tặc sổ niên dĩ lai, vi chính nhược mãnh, độc ngược kỳ dân, kim tất phế trừ chi, tuyên bố triều đình chính lệnh, dĩ an chúng thứ. An Nam các xứ quan ải, hữu kết tụ nhân dân thủ bả doanh trại cập đào tị hải đảo giả, chiếu thư đáo nhật, tức tiện giải tán. Kỳ dân ly Lê tặc khốn khổ dĩ cửu, hữu ti nghi thiện phủ tuất, sử an sinh nghiệp, vô trí thất sở. Kỳ quan lại quân dân hữu vi Lê tặc sở hại, hoặc kình thứ đồ phối, hoặc toàn gia lưu tỷ bất đắc kỳ sở, cập nhất ứng bị hại chi nhân, chiếu thư đáo nhật, tất phóng hồi nguyên tịch phục nghiệp, sở tại hữu ti tức tiện khởi phát, vô đắc đình lưu. Kỳ hữu tù hệ ư ngục giả, tức thì phóng khiển. An Nam cảnh nội phàm hữu cao niên thạc đức, hữu ti tức gia lễ đãi. Cập quan quả cô độc chi nhân vô y ỷ giả, vi lập Dưỡng tế viện dĩ tồn tuất chi. Hữu hoài tài bão đức khả dụng chi sĩ, hữu ti dĩ lễ đôn khiển chí kinh, lượng tài ư bản thổ tự dụng. An Nam dữ Chiêm Thành, bách di đẳng xứ tiếp giới, nghi các thủ cương cảnh, vô trí xâm việt, diệc bất hứa quân dân nhân đẳng tư thông ngoại cảnh, tư tự hạ hải phiến dục phiên hóa, vi giả y luật trị tội. Ô hô! Uy vũ tái dương, khởi dư tâm chi sở dục; nguyên ác ký cức, thực hữu chúng chi đồng tình. Quảng thi nhất thị chi nhân, Vĩnh Lạc<ref>Niên hiệu của [[Tác gia:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]]</ref> thái bình chi trị, bố cáo trung ngoại, hàm sử văn tri. </poem> |} ==Dịch nghĩa== {{chú thích cuối trang}} ---- Xem thêm bản tiếng Anh: * Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/entry/1104, accessed July 11, 2016. {{PD-old}} [[Thể loại:Văn học Trung Quốc]] [[Thể loại:Chiếu]] c47d2eh7asgbyx2j4x6xkb856trpfww 195784 195783 2025-06-19T06:36:29Z Mrfly911 2215 195784 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 平安南詔 - Bình An Nam chiếu | tác giả = [[Minh Thành Tổ]] | dịch giả = | năm = 1407 | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Ngày 17 tháng 7 năm 1407 (Âm lịch: ngày mồng 1 tháng 6 âm lịch năm Vĩnh Lạc thứ 5, tức ngày Quý Mùi), Minh Thành Tổ (Chu Lệ) sau khi xuất binh tiến đánh nước An Nam do [[nhà Hồ]] đang nắm quyền, ban chiếu bố cáo thiên hạ. }} ---- {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! &nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 朕祇奉皇圖,恪尊成憲,弘敷至化,期四海之樂,永保太和,俾萬物之咸遂,夙夜兢業,弗敢怠遑。仰惟皇考太祖高皇帝混一天下,懷柔遠人,安南陳日煃慕義向風,率先職貢,遂封為安南王,世有其土。比者,賊臣黎季犛及子蒼弒其國主,戕及闔家,毒痛生民,怨聲載路,詭易姓名為胡一元,子為胡𡗨,隱蔽其實,詭稱陳甥,誑言陳氏絕嗣,請求襲封,朕念國人無統,聽允所云。幸成奸謀,肆無忌憚,自謂聖優三皇,德高五帝,以文武為不足法,周孔為不足師,僭國號曰大虞,紀年元聖,自稱兩宮皇帝,冒用朝廷禮儀,招納逋逃,陽奉正朔;覬覦南詔,窺伺廣西,據思明府之數州,侵寧遠州之七寨,虜其子女,毆其人民,欺占城孱弱,奪其土疆,逼與章服,要其貢賦;累使曉諭,怙惡弗悛;安南王孫奔竄來訴,稱賊謬陳誠款,請迎君之,乃伏兵要殺於途,拒辱朝使;朕遣人賜占城禮物,又劫使臣而奪之。蠢茲凶竪,積惡如山,四海之所不容,神人之所憤怒。興言至此,衋然傷懷,實不得已,是用興師,期伐罪以吊民,將興滅而繼絕,爰命總兵官征夷將軍新城侯張輔等率師八十萬討之,飛度富良,深入逆境,桓桓虎旅,威名雷霆,業業凶徒,勢如拉朽,七百萬之眾須臾而盡,二千里之國次第皆平,生擒逆賊黎季犛及子黎蒼、黎澄與其家屬,並偽將相官僚徐季貔、胡杜等,撫納降附,綏輯良善,遍求陳氏子孫立之,其國之官吏、耆老人等咸稱為黎賊殺戮已盡,無可繼承,又稱:「安南本古交州,為中國郡縣,論污夷習,及茲有年,今幸泛掃欃槍,磢剷蕪穢,原復古郡縣,與民更新。」朕俯徇輿情,人其所請,置交址都指揮使司、交址等處承宣布政使司、交址等處提刑按察使司及軍民衙門,設官分理,廓清海徼之妖氛,變革遐邦之舊俗,所有合行事宜,條列於後,安南王陳氏為黎賊所弒,死於非命,宜與贈謚,慰其幽冥;其子孫宗族有為黎賊所害者,宜贈以官,有司皆具名來聞。陳氏子孫既為黎賊盡戮,宗祀廢絕,有司宜與建祠,其墳墓蕪廢,宜與修治,祠墳各給民三十戶供祭掃。安南官吏軍民人等為黎賊驅迫死亡者眾,暴露可憫,有司即為埋瘞。安南郡縣官吏皆陳氏舊人,為黎賊威脅,本非得已,詔書到日,凡在職役者悉仍其舊。然民久染夷俗,宜設官兼治,教以中國禮法。黎賊數年以來,為政若猛,毒虐其民,今悉廢除之,宣布朝廷政令,以安眾庶。安南各處關隘,有結聚人民守把營寨及逃避海島者,詔書到日,即便解散。其民罹黎賊困苦已久,有司宜善撫恤,使安生業,無致失所。其官吏軍民有為黎賊所害,或黥刺徒配,或全家流徙不得其所,及一應被害之人,詔書到日,悉放回原籍復業,所在有司即便起發,毋得停留。其有囚繫於獄者,即時放遣。安南境內凡有高年碩德,有司即加禮待。及鰥寡孤獨之人無依倚者,為立養濟院以存恤之。有懷才抱德可用之士,有司以禮敦遣至京,量才於本土敍用。安南與占城、百夷等處接界,宜各守疆境,毋致侵越,亦不許軍民人等私通外境,私自下海販鬻番貨,違者依律治罪。於戲!威武再揚,豈予心之所欲;元惡既殛,實有眾之同情。廣施一視之仁,永樂太平之治,布告中外,咸使聞知。 </poem> | <poem> Trẫm kỳ phụng hoàng đồ, khác tôn thành hiến, hoằng phu chí hóa, kỳ tứ hải chi lạc, vĩnh bảo thái hòa, tỷ vạn vật chi hàm toại, túc dạ căng nghiệp, phất cảm đãi hoàng. Ngưỡng duy Hoàng khảo Thái Tổ Cao Hoàng đế<ref>Tức [[w:Minh Thái Tổ|Minh Thái Tổ]]</ref> hỗn nhất thiên hạ, hoài nhu viễn nhân, An Nam Trần Nhật Khuê<ref>Tức [[Tác gia:Trần Dụ Tông|Trần Dụ Tông]]</ref> mộ nghĩa hướng phong, suất tiên chức cống, toại phong vi An Nam vương, thế hữu kỳ thổ. Bỉ giả, tặc thần Lê Quý Ly cập tử Thương<ref>Tức cha con [[Tác gia:Hồ Quý Ly|Hồ Quý Ly]] và [[w:Hồ Hán Thương|Hồ Hán Thương]]</ref> thí kỳ quốc chủ, tường cập hạp gia, độc thống sinh dân, oán thanh tái lộ, quỷ dịch tính danh vi Hồ Nhất Nguyên, tử vi Hồ Đê, ẩn tế kỳ thực, quỷ xưng Trần sanh, cuống ngôn Trần thị tuyệt tự, thỉnh cầu tập phong, trẫm niệm quốc nhân vô thống, thính doãn sở vân. Hạnh thành gian mưu, tứ vô kỵ đạn, tự vị thánh ưu Tam hoàng, đức cao Ngũ đế<ref>Xem [[w:Tam Hoàng Ngũ Đế|Tam hoàng Ngũ đế]]</ref>, dĩ Văn Vũ<ref>Tức [[w:Cơ Xương|Chu Văn vương]] và [[w:Chu Vũ vương|Chu Vũ vương]]</ref> vi bất túc pháp, Chu Khổng<ref>Tức [[w:Chu công Đán|Chu công]] và [[w:Khổng Tử|Khổng Tử]]</ref> vi bất túc sư, tiếm quốc hiệu viết Đại Ngu, kỷ niên Nguyên Thánh, tự xưng lưỡng cung Hoàng đế, mạo dụng triều đình lễ nghi, chiêu nạp bô đào, dương phụng chính sóc; ký du Nam Chiếu, khuy tý Quảng Tây, cứ Tư Minh phủ chi sổ châu, xâm Ninh Viễn châu chi thất trại, lỗ kỳ tử nữ, ẩu kỳ nhân dân, khi Chiêm Thành sàn nhược, đoạt kỳ thổ cương, bức dữ chương phục, yếu kỳ cống phú; luy sử hiểu dụ, hỗ ác phất thuân; An Nam vương tôn<ref>Tức [[w:Trần Thiêm Bình|Trần Thiêm Bình]]</ref> bôn thoán lai tố, xưng tặc mậu trần thành khoản, thỉnh nghênh quân chi, nãi phục binh yếu sát ư đồ, cự nhục triều sứ; trẫm khiển nhân tứ Chiêm Thành lễ vật, hựu kiếp sứ thần nhi đoạt chi. Xuẩn tư hung thụ, tích ác như sơn, tứ hải chi sở bất dung, thần nhân chi sở phẫn nộ. Hưng ngôn chí thử, hực nhiên thương hoài, thực bất đắc dĩ, thị dụng hưng sư, kỳ phạt tội dĩ điếu dân, tương hưng diệt nhi kế tuyệt, viên mệnh Tổng binh quan Chinh Di tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ đẳng suất sư bát thập vạn thảo chi, phi độ Phú Lương, thâm nhập nghịch cảnh, hoàn hoàn hổ lữ, uy danh lôi đình, nghiệp nghiệp hung đồ, thế như lạp hủ, thất bách vạn chi chúng tu du nhi tận, nhị thiên lý chi quốc thứ đệ giai bình, sinh cầm nghịch tặc Lê Quý Ly cập tử Lê Thương, Lê Trừng<ref>Tức [[Tác gia:Hồ Nguyên Trừng|Hồ Nguyên Trừng]]</ref> dữ kỳ gia thuộc, tịnh ngụy tướng tương quan liêu Từ Quý Tỳ<ref>Tức Hồ Quý Tỳ, em ruột Hồ Quý Ly</ref>, Hồ Đỗ đẳng, phủ nạp hàng phụ, tuy tập lương thiện, biến cầu Trần thị tử tôn lập chi, kỳ quốc chi quan lại, kỳ lão nhân đẳng hàm xưng vi Lê tặc sát lục dĩ tận, vô khả kế thừa, hựu xưng: "An Nam bản cổ Giao Châu, vi Trung Quốc quận huyện, luận ô di tập, cập tư hữu niên, kim hạnh phiếm tảo sàm thương, sưởng sản vu uế, nguyên phục cổ quận huyện, dữ dân canh tân". Trẫm phủ tuẫn dư tình, nhân kỳ sở thỉnh, trí Giao Chỉ Đô chỉ huy sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Thừa tuyên Bố chính sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Đề hình Án sát sứ ti, cập quân dân nha môn, thiết quan phân lý, khuếch thanh hải kiếu chi yêu phân, biến cách hà bang chi cựu tục, sở hữu hợp hành sự nghi, điều liệt ư hậu, An Nam vương Trần thị vi Lê tặc sở thí, tử ư phi mệnh, nghi dữ tặng thụy, úy kỳ u minh; kỳ tử tôn tông tộc hữu vi Lê tặc sở hại giả, nghi tặng dĩ quan, hữu ti giai cụ danh lai văn. Trần thị tử tôn ký vi Lê tặc tận lục, tông tự phế tuyệt, hữu ti nghi dữ kiến từ, kỳ phần mộ vu phế, nghi dữ tu trì, từ phần các cấp dân tam thập hộ cung tế tảo. An Nam quan lại quân dân nhân đẳng vi Lê tặc khu bách tử vong giả chúng, bạo lộ khả mẫn, hữu ti tức vi mai ế. An Nam quận huyện quan lại giai Trần thị cựu nhân, vi Lê tặc uy hiếp, bản phi đắc dĩ, chiếu thư đáo nhật, phàm tại chức dịch giả tất nhưng kỳ cựu. Nhiên dân cửu nhiễm di tục, nghi thiết quan kiêm trị, giáo dĩ Trung Quốc lễ pháp. Lê tặc sổ niên dĩ lai, vi chính nhược mãnh, độc ngược kỳ dân, kim tất phế trừ chi, tuyên bố triều đình chính lệnh, dĩ an chúng thứ. An Nam các xứ quan ải, hữu kết tụ nhân dân thủ bả doanh trại cập đào tị hải đảo giả, chiếu thư đáo nhật, tức tiện giải tán. Kỳ dân ly Lê tặc khốn khổ dĩ cửu, hữu ti nghi thiện phủ tuất, sử an sinh nghiệp, vô trí thất sở. Kỳ quan lại quân dân hữu vi Lê tặc sở hại, hoặc kình thứ đồ phối, hoặc toàn gia lưu tỷ bất đắc kỳ sở, cập nhất ứng bị hại chi nhân, chiếu thư đáo nhật, tất phóng hồi nguyên tịch phục nghiệp, sở tại hữu ti tức tiện khởi phát, vô đắc đình lưu. Kỳ hữu tù hệ ư ngục giả, tức thì phóng khiển. An Nam cảnh nội phàm hữu cao niên thạc đức, hữu ti tức gia lễ đãi. Cập quan quả cô độc chi nhân vô y ỷ giả, vi lập Dưỡng tế viện dĩ tồn tuất chi. Hữu hoài tài bão đức khả dụng chi sĩ, hữu ti dĩ lễ đôn khiển chí kinh, lượng tài ư bản thổ tự dụng. An Nam dữ Chiêm Thành, bách di đẳng xứ tiếp giới, nghi các thủ cương cảnh, vô trí xâm việt, diệc bất hứa quân dân nhân đẳng tư thông ngoại cảnh, tư tự hạ hải phiến dục phiên hóa, vi giả y luật trị tội. Ô hô! Uy vũ tái dương, khởi dư tâm chi sở dục; nguyên ác ký cức, thực hữu chúng chi đồng tình. Quảng thi nhất thị chi nhân, Vĩnh Lạc<ref>Niên hiệu của [[Tác gia:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]]</ref> thái bình chi trị, bố cáo trung ngoại, hàm sử văn tri. </poem> |} ==Dịch nghĩa== {{chú thích cuối trang}} ---- Xem thêm bản tiếng Anh: * Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/entry/1104, accessed July 11, 2016. {{PD-old}} [[Thể loại:Văn học Trung Quốc]] [[Thể loại:Chiếu]] gz0m3t4d6j6cnbywlpf92aqlg7dwbp1 195785 195784 2025-06-19T06:38:03Z Mrfly911 2215 195785 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 平安南詔 - Bình An Nam chiếu | tác giả = Minh Thành Tổ | dịch giả = | năm = 1407 | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Ngày 17 tháng 7 năm 1407 (Âm lịch: ngày mồng 1 tháng 6 âm lịch năm Vĩnh Lạc thứ 5, tức ngày Quý Mùi), [[w:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]] (Chu Lệ) sau khi xuất binh tiến đánh nước An Nam do [[w:nhà Hồ|nhà Hồ]] đang nắm quyền, ban chiếu bố cáo thiên hạ. }} ---- {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! &nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 朕祇奉皇圖,恪尊成憲,弘敷至化,期四海之樂,永保太和,俾萬物之咸遂,夙夜兢業,弗敢怠遑。仰惟皇考太祖高皇帝混一天下,懷柔遠人,安南陳日煃慕義向風,率先職貢,遂封為安南王,世有其土。比者,賊臣黎季犛及子蒼弒其國主,戕及闔家,毒痛生民,怨聲載路,詭易姓名為胡一元,子為胡𡗨,隱蔽其實,詭稱陳甥,誑言陳氏絕嗣,請求襲封,朕念國人無統,聽允所云。幸成奸謀,肆無忌憚,自謂聖優三皇,德高五帝,以文武為不足法,周孔為不足師,僭國號曰大虞,紀年元聖,自稱兩宮皇帝,冒用朝廷禮儀,招納逋逃,陽奉正朔;覬覦南詔,窺伺廣西,據思明府之數州,侵寧遠州之七寨,虜其子女,毆其人民,欺占城孱弱,奪其土疆,逼與章服,要其貢賦;累使曉諭,怙惡弗悛;安南王孫奔竄來訴,稱賊謬陳誠款,請迎君之,乃伏兵要殺於途,拒辱朝使;朕遣人賜占城禮物,又劫使臣而奪之。蠢茲凶竪,積惡如山,四海之所不容,神人之所憤怒。興言至此,衋然傷懷,實不得已,是用興師,期伐罪以吊民,將興滅而繼絕,爰命總兵官征夷將軍新城侯張輔等率師八十萬討之,飛度富良,深入逆境,桓桓虎旅,威名雷霆,業業凶徒,勢如拉朽,七百萬之眾須臾而盡,二千里之國次第皆平,生擒逆賊黎季犛及子黎蒼、黎澄與其家屬,並偽將相官僚徐季貔、胡杜等,撫納降附,綏輯良善,遍求陳氏子孫立之,其國之官吏、耆老人等咸稱為黎賊殺戮已盡,無可繼承,又稱:「安南本古交州,為中國郡縣,論污夷習,及茲有年,今幸泛掃欃槍,磢剷蕪穢,原復古郡縣,與民更新。」朕俯徇輿情,人其所請,置交址都指揮使司、交址等處承宣布政使司、交址等處提刑按察使司及軍民衙門,設官分理,廓清海徼之妖氛,變革遐邦之舊俗,所有合行事宜,條列於後,安南王陳氏為黎賊所弒,死於非命,宜與贈謚,慰其幽冥;其子孫宗族有為黎賊所害者,宜贈以官,有司皆具名來聞。陳氏子孫既為黎賊盡戮,宗祀廢絕,有司宜與建祠,其墳墓蕪廢,宜與修治,祠墳各給民三十戶供祭掃。安南官吏軍民人等為黎賊驅迫死亡者眾,暴露可憫,有司即為埋瘞。安南郡縣官吏皆陳氏舊人,為黎賊威脅,本非得已,詔書到日,凡在職役者悉仍其舊。然民久染夷俗,宜設官兼治,教以中國禮法。黎賊數年以來,為政若猛,毒虐其民,今悉廢除之,宣布朝廷政令,以安眾庶。安南各處關隘,有結聚人民守把營寨及逃避海島者,詔書到日,即便解散。其民罹黎賊困苦已久,有司宜善撫恤,使安生業,無致失所。其官吏軍民有為黎賊所害,或黥刺徒配,或全家流徙不得其所,及一應被害之人,詔書到日,悉放回原籍復業,所在有司即便起發,毋得停留。其有囚繫於獄者,即時放遣。安南境內凡有高年碩德,有司即加禮待。及鰥寡孤獨之人無依倚者,為立養濟院以存恤之。有懷才抱德可用之士,有司以禮敦遣至京,量才於本土敍用。安南與占城、百夷等處接界,宜各守疆境,毋致侵越,亦不許軍民人等私通外境,私自下海販鬻番貨,違者依律治罪。於戲!威武再揚,豈予心之所欲;元惡既殛,實有眾之同情。廣施一視之仁,永樂太平之治,布告中外,咸使聞知。 </poem> | <poem> Trẫm kỳ phụng hoàng đồ, khác tôn thành hiến, hoằng phu chí hóa, kỳ tứ hải chi lạc, vĩnh bảo thái hòa, tỷ vạn vật chi hàm toại, túc dạ căng nghiệp, phất cảm đãi hoàng. Ngưỡng duy Hoàng khảo Thái Tổ Cao Hoàng đế<ref>Tức [[w:Minh Thái Tổ|Minh Thái Tổ]]</ref> hỗn nhất thiên hạ, hoài nhu viễn nhân, An Nam Trần Nhật Khuê<ref>Tức [[Tác gia:Trần Dụ Tông|Trần Dụ Tông]]</ref> mộ nghĩa hướng phong, suất tiên chức cống, toại phong vi An Nam vương, thế hữu kỳ thổ. Bỉ giả, tặc thần Lê Quý Ly cập tử Thương<ref>Tức cha con [[Tác gia:Hồ Quý Ly|Hồ Quý Ly]] và [[w:Hồ Hán Thương|Hồ Hán Thương]]</ref> thí kỳ quốc chủ, tường cập hạp gia, độc thống sinh dân, oán thanh tái lộ, quỷ dịch tính danh vi Hồ Nhất Nguyên, tử vi Hồ Đê, ẩn tế kỳ thực, quỷ xưng Trần sanh, cuống ngôn Trần thị tuyệt tự, thỉnh cầu tập phong, trẫm niệm quốc nhân vô thống, thính doãn sở vân. Hạnh thành gian mưu, tứ vô kỵ đạn, tự vị thánh ưu Tam hoàng, đức cao Ngũ đế<ref>Xem [[w:Tam Hoàng Ngũ Đế|Tam hoàng Ngũ đế]]</ref>, dĩ Văn Vũ<ref>Tức [[w:Cơ Xương|Chu Văn vương]] và [[w:Chu Vũ vương|Chu Vũ vương]]</ref> vi bất túc pháp, Chu Khổng<ref>Tức [[w:Chu công Đán|Chu công]] và [[w:Khổng Tử|Khổng Tử]]</ref> vi bất túc sư, tiếm quốc hiệu viết Đại Ngu, kỷ niên Nguyên Thánh, tự xưng lưỡng cung Hoàng đế, mạo dụng triều đình lễ nghi, chiêu nạp bô đào, dương phụng chính sóc; ký du Nam Chiếu, khuy tý Quảng Tây, cứ Tư Minh phủ chi sổ châu, xâm Ninh Viễn châu chi thất trại, lỗ kỳ tử nữ, ẩu kỳ nhân dân, khi Chiêm Thành sàn nhược, đoạt kỳ thổ cương, bức dữ chương phục, yếu kỳ cống phú; luy sử hiểu dụ, hỗ ác phất thuân; An Nam vương tôn<ref>Tức [[w:Trần Thiêm Bình|Trần Thiêm Bình]]</ref> bôn thoán lai tố, xưng tặc mậu trần thành khoản, thỉnh nghênh quân chi, nãi phục binh yếu sát ư đồ, cự nhục triều sứ; trẫm khiển nhân tứ Chiêm Thành lễ vật, hựu kiếp sứ thần nhi đoạt chi. Xuẩn tư hung thụ, tích ác như sơn, tứ hải chi sở bất dung, thần nhân chi sở phẫn nộ. Hưng ngôn chí thử, hực nhiên thương hoài, thực bất đắc dĩ, thị dụng hưng sư, kỳ phạt tội dĩ điếu dân, tương hưng diệt nhi kế tuyệt, viên mệnh Tổng binh quan Chinh Di tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ đẳng suất sư bát thập vạn thảo chi, phi độ Phú Lương, thâm nhập nghịch cảnh, hoàn hoàn hổ lữ, uy danh lôi đình, nghiệp nghiệp hung đồ, thế như lạp hủ, thất bách vạn chi chúng tu du nhi tận, nhị thiên lý chi quốc thứ đệ giai bình, sinh cầm nghịch tặc Lê Quý Ly cập tử Lê Thương, Lê Trừng<ref>Tức [[Tác gia:Hồ Nguyên Trừng|Hồ Nguyên Trừng]]</ref> dữ kỳ gia thuộc, tịnh ngụy tướng tương quan liêu Từ Quý Tỳ<ref>Tức Hồ Quý Tỳ, em ruột Hồ Quý Ly</ref>, Hồ Đỗ đẳng, phủ nạp hàng phụ, tuy tập lương thiện, biến cầu Trần thị tử tôn lập chi, kỳ quốc chi quan lại, kỳ lão nhân đẳng hàm xưng vi Lê tặc sát lục dĩ tận, vô khả kế thừa, hựu xưng: "An Nam bản cổ Giao Châu, vi Trung Quốc quận huyện, luận ô di tập, cập tư hữu niên, kim hạnh phiếm tảo sàm thương, sưởng sản vu uế, nguyên phục cổ quận huyện, dữ dân canh tân". Trẫm phủ tuẫn dư tình, nhân kỳ sở thỉnh, trí Giao Chỉ Đô chỉ huy sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Thừa tuyên Bố chính sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Đề hình Án sát sứ ti, cập quân dân nha môn, thiết quan phân lý, khuếch thanh hải kiếu chi yêu phân, biến cách hà bang chi cựu tục, sở hữu hợp hành sự nghi, điều liệt ư hậu, An Nam vương Trần thị vi Lê tặc sở thí, tử ư phi mệnh, nghi dữ tặng thụy, úy kỳ u minh; kỳ tử tôn tông tộc hữu vi Lê tặc sở hại giả, nghi tặng dĩ quan, hữu ti giai cụ danh lai văn. Trần thị tử tôn ký vi Lê tặc tận lục, tông tự phế tuyệt, hữu ti nghi dữ kiến từ, kỳ phần mộ vu phế, nghi dữ tu trì, từ phần các cấp dân tam thập hộ cung tế tảo. An Nam quan lại quân dân nhân đẳng vi Lê tặc khu bách tử vong giả chúng, bạo lộ khả mẫn, hữu ti tức vi mai ế. An Nam quận huyện quan lại giai Trần thị cựu nhân, vi Lê tặc uy hiếp, bản phi đắc dĩ, chiếu thư đáo nhật, phàm tại chức dịch giả tất nhưng kỳ cựu. Nhiên dân cửu nhiễm di tục, nghi thiết quan kiêm trị, giáo dĩ Trung Quốc lễ pháp. Lê tặc sổ niên dĩ lai, vi chính nhược mãnh, độc ngược kỳ dân, kim tất phế trừ chi, tuyên bố triều đình chính lệnh, dĩ an chúng thứ. An Nam các xứ quan ải, hữu kết tụ nhân dân thủ bả doanh trại cập đào tị hải đảo giả, chiếu thư đáo nhật, tức tiện giải tán. Kỳ dân ly Lê tặc khốn khổ dĩ cửu, hữu ti nghi thiện phủ tuất, sử an sinh nghiệp, vô trí thất sở. Kỳ quan lại quân dân hữu vi Lê tặc sở hại, hoặc kình thứ đồ phối, hoặc toàn gia lưu tỷ bất đắc kỳ sở, cập nhất ứng bị hại chi nhân, chiếu thư đáo nhật, tất phóng hồi nguyên tịch phục nghiệp, sở tại hữu ti tức tiện khởi phát, vô đắc đình lưu. Kỳ hữu tù hệ ư ngục giả, tức thì phóng khiển. An Nam cảnh nội phàm hữu cao niên thạc đức, hữu ti tức gia lễ đãi. Cập quan quả cô độc chi nhân vô y ỷ giả, vi lập Dưỡng tế viện dĩ tồn tuất chi. Hữu hoài tài bão đức khả dụng chi sĩ, hữu ti dĩ lễ đôn khiển chí kinh, lượng tài ư bản thổ tự dụng. An Nam dữ Chiêm Thành, bách di đẳng xứ tiếp giới, nghi các thủ cương cảnh, vô trí xâm việt, diệc bất hứa quân dân nhân đẳng tư thông ngoại cảnh, tư tự hạ hải phiến dục phiên hóa, vi giả y luật trị tội. Ô hô! Uy vũ tái dương, khởi dư tâm chi sở dục; nguyên ác ký cức, thực hữu chúng chi đồng tình. Quảng thi nhất thị chi nhân, Vĩnh Lạc<ref>Niên hiệu của [[Tác gia:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]]</ref> thái bình chi trị, bố cáo trung ngoại, hàm sử văn tri. </poem> |} ==Dịch nghĩa== {{chú thích cuối trang}} ---- Xem thêm bản tiếng Anh: * Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/entry/1104, accessed July 11, 2016. {{PD-old}} [[Thể loại:Văn học Trung Quốc]] [[Thể loại:Chiếu]] 6yb3vhcjcg5h3jxf7enbonw0xs98gh3 195787 195785 2025-06-19T06:41:12Z Mrfly911 2215 195787 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 平安南詔 - Bình An Nam chiếu | tác giả = Minh Thành Tổ | dịch giả = | năm = 1407 | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Ngày 5 tháng 7 năm 1407 (Âm lịch: ngày mồng 1 tháng 6 âm lịch năm Vĩnh Lạc thứ 5, tức ngày Quý Mùi), [[w:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]] (Chu Lệ) sau khi xuất binh tiến đánh nước An Nam do [[w:nhà Hồ|nhà Hồ]] đang nắm quyền, ban chiếu bố cáo thiên hạ. }} ---- {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! &nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 朕祇奉皇圖,恪尊成憲,弘敷至化,期四海之樂,永保太和,俾萬物之咸遂,夙夜兢業,弗敢怠遑。仰惟皇考太祖高皇帝混一天下,懷柔遠人,安南陳日煃慕義向風,率先職貢,遂封為安南王,世有其土。比者,賊臣黎季犛及子蒼弒其國主,戕及闔家,毒痛生民,怨聲載路,詭易姓名為胡一元,子為胡𡗨,隱蔽其實,詭稱陳甥,誑言陳氏絕嗣,請求襲封,朕念國人無統,聽允所云。幸成奸謀,肆無忌憚,自謂聖優三皇,德高五帝,以文武為不足法,周孔為不足師,僭國號曰大虞,紀年元聖,自稱兩宮皇帝,冒用朝廷禮儀,招納逋逃,陽奉正朔;覬覦南詔,窺伺廣西,據思明府之數州,侵寧遠州之七寨,虜其子女,毆其人民,欺占城孱弱,奪其土疆,逼與章服,要其貢賦;累使曉諭,怙惡弗悛;安南王孫奔竄來訴,稱賊謬陳誠款,請迎君之,乃伏兵要殺於途,拒辱朝使;朕遣人賜占城禮物,又劫使臣而奪之。蠢茲凶竪,積惡如山,四海之所不容,神人之所憤怒。興言至此,衋然傷懷,實不得已,是用興師,期伐罪以吊民,將興滅而繼絕,爰命總兵官征夷將軍新城侯張輔等率師八十萬討之,飛度富良,深入逆境,桓桓虎旅,威名雷霆,業業凶徒,勢如拉朽,七百萬之眾須臾而盡,二千里之國次第皆平,生擒逆賊黎季犛及子黎蒼、黎澄與其家屬,並偽將相官僚徐季貔、胡杜等,撫納降附,綏輯良善,遍求陳氏子孫立之,其國之官吏、耆老人等咸稱為黎賊殺戮已盡,無可繼承,又稱:「安南本古交州,為中國郡縣,論污夷習,及茲有年,今幸泛掃欃槍,磢剷蕪穢,原復古郡縣,與民更新。」朕俯徇輿情,人其所請,置交址都指揮使司、交址等處承宣布政使司、交址等處提刑按察使司及軍民衙門,設官分理,廓清海徼之妖氛,變革遐邦之舊俗,所有合行事宜,條列於後,安南王陳氏為黎賊所弒,死於非命,宜與贈謚,慰其幽冥;其子孫宗族有為黎賊所害者,宜贈以官,有司皆具名來聞。陳氏子孫既為黎賊盡戮,宗祀廢絕,有司宜與建祠,其墳墓蕪廢,宜與修治,祠墳各給民三十戶供祭掃。安南官吏軍民人等為黎賊驅迫死亡者眾,暴露可憫,有司即為埋瘞。安南郡縣官吏皆陳氏舊人,為黎賊威脅,本非得已,詔書到日,凡在職役者悉仍其舊。然民久染夷俗,宜設官兼治,教以中國禮法。黎賊數年以來,為政若猛,毒虐其民,今悉廢除之,宣布朝廷政令,以安眾庶。安南各處關隘,有結聚人民守把營寨及逃避海島者,詔書到日,即便解散。其民罹黎賊困苦已久,有司宜善撫恤,使安生業,無致失所。其官吏軍民有為黎賊所害,或黥刺徒配,或全家流徙不得其所,及一應被害之人,詔書到日,悉放回原籍復業,所在有司即便起發,毋得停留。其有囚繫於獄者,即時放遣。安南境內凡有高年碩德,有司即加禮待。及鰥寡孤獨之人無依倚者,為立養濟院以存恤之。有懷才抱德可用之士,有司以禮敦遣至京,量才於本土敍用。安南與占城、百夷等處接界,宜各守疆境,毋致侵越,亦不許軍民人等私通外境,私自下海販鬻番貨,違者依律治罪。於戲!威武再揚,豈予心之所欲;元惡既殛,實有眾之同情。廣施一視之仁,永樂太平之治,布告中外,咸使聞知。 </poem> | <poem> Trẫm kỳ phụng hoàng đồ, khác tôn thành hiến, hoằng phu chí hóa, kỳ tứ hải chi lạc, vĩnh bảo thái hòa, tỷ vạn vật chi hàm toại, túc dạ căng nghiệp, phất cảm đãi hoàng. Ngưỡng duy Hoàng khảo Thái Tổ Cao Hoàng đế<ref>Tức [[w:Minh Thái Tổ|Minh Thái Tổ]]</ref> hỗn nhất thiên hạ, hoài nhu viễn nhân, An Nam Trần Nhật Khuê<ref>Tức [[Tác gia:Trần Dụ Tông|Trần Dụ Tông]]</ref> mộ nghĩa hướng phong, suất tiên chức cống, toại phong vi An Nam vương, thế hữu kỳ thổ. Bỉ giả, tặc thần Lê Quý Ly cập tử Thương<ref>Tức cha con [[Tác gia:Hồ Quý Ly|Hồ Quý Ly]] và [[w:Hồ Hán Thương|Hồ Hán Thương]]</ref> thí kỳ quốc chủ, tường cập hạp gia, độc thống sinh dân, oán thanh tái lộ, quỷ dịch tính danh vi Hồ Nhất Nguyên, tử vi Hồ Đê, ẩn tế kỳ thực, quỷ xưng Trần sanh, cuống ngôn Trần thị tuyệt tự, thỉnh cầu tập phong, trẫm niệm quốc nhân vô thống, thính doãn sở vân. Hạnh thành gian mưu, tứ vô kỵ đạn, tự vị thánh ưu Tam hoàng, đức cao Ngũ đế<ref>Xem [[w:Tam Hoàng Ngũ Đế|Tam hoàng Ngũ đế]]</ref>, dĩ Văn Vũ<ref>Tức [[w:Cơ Xương|Chu Văn vương]] và [[w:Chu Vũ vương|Chu Vũ vương]]</ref> vi bất túc pháp, Chu Khổng<ref>Tức [[w:Chu công Đán|Chu công]] và [[w:Khổng Tử|Khổng Tử]]</ref> vi bất túc sư, tiếm quốc hiệu viết Đại Ngu, kỷ niên Nguyên Thánh, tự xưng lưỡng cung Hoàng đế, mạo dụng triều đình lễ nghi, chiêu nạp bô đào, dương phụng chính sóc; ký du Nam Chiếu, khuy tý Quảng Tây, cứ Tư Minh phủ chi sổ châu, xâm Ninh Viễn châu chi thất trại, lỗ kỳ tử nữ, ẩu kỳ nhân dân, khi Chiêm Thành sàn nhược, đoạt kỳ thổ cương, bức dữ chương phục, yếu kỳ cống phú; luy sử hiểu dụ, hỗ ác phất thuân; An Nam vương tôn<ref>Tức [[w:Trần Thiêm Bình|Trần Thiêm Bình]]</ref> bôn thoán lai tố, xưng tặc mậu trần thành khoản, thỉnh nghênh quân chi, nãi phục binh yếu sát ư đồ, cự nhục triều sứ; trẫm khiển nhân tứ Chiêm Thành lễ vật, hựu kiếp sứ thần nhi đoạt chi. Xuẩn tư hung thụ, tích ác như sơn, tứ hải chi sở bất dung, thần nhân chi sở phẫn nộ. Hưng ngôn chí thử, hực nhiên thương hoài, thực bất đắc dĩ, thị dụng hưng sư, kỳ phạt tội dĩ điếu dân, tương hưng diệt nhi kế tuyệt, viên mệnh Tổng binh quan Chinh Di tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ đẳng suất sư bát thập vạn thảo chi, phi độ Phú Lương, thâm nhập nghịch cảnh, hoàn hoàn hổ lữ, uy danh lôi đình, nghiệp nghiệp hung đồ, thế như lạp hủ, thất bách vạn chi chúng tu du nhi tận, nhị thiên lý chi quốc thứ đệ giai bình, sinh cầm nghịch tặc Lê Quý Ly cập tử Lê Thương, Lê Trừng<ref>Tức [[Tác gia:Hồ Nguyên Trừng|Hồ Nguyên Trừng]]</ref> dữ kỳ gia thuộc, tịnh ngụy tướng tương quan liêu Từ Quý Tỳ<ref>Tức Hồ Quý Tỳ, em ruột Hồ Quý Ly</ref>, Hồ Đỗ đẳng, phủ nạp hàng phụ, tuy tập lương thiện, biến cầu Trần thị tử tôn lập chi, kỳ quốc chi quan lại, kỳ lão nhân đẳng hàm xưng vi Lê tặc sát lục dĩ tận, vô khả kế thừa, hựu xưng: "An Nam bản cổ Giao Châu, vi Trung Quốc quận huyện, luận ô di tập, cập tư hữu niên, kim hạnh phiếm tảo sàm thương, sưởng sản vu uế, nguyên phục cổ quận huyện, dữ dân canh tân". Trẫm phủ tuẫn dư tình, nhân kỳ sở thỉnh, trí Giao Chỉ Đô chỉ huy sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Thừa tuyên Bố chính sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Đề hình Án sát sứ ti, cập quân dân nha môn, thiết quan phân lý, khuếch thanh hải kiếu chi yêu phân, biến cách hà bang chi cựu tục, sở hữu hợp hành sự nghi, điều liệt ư hậu, An Nam vương Trần thị vi Lê tặc sở thí, tử ư phi mệnh, nghi dữ tặng thụy, úy kỳ u minh; kỳ tử tôn tông tộc hữu vi Lê tặc sở hại giả, nghi tặng dĩ quan, hữu ti giai cụ danh lai văn. Trần thị tử tôn ký vi Lê tặc tận lục, tông tự phế tuyệt, hữu ti nghi dữ kiến từ, kỳ phần mộ vu phế, nghi dữ tu trì, từ phần các cấp dân tam thập hộ cung tế tảo. An Nam quan lại quân dân nhân đẳng vi Lê tặc khu bách tử vong giả chúng, bạo lộ khả mẫn, hữu ti tức vi mai ế. An Nam quận huyện quan lại giai Trần thị cựu nhân, vi Lê tặc uy hiếp, bản phi đắc dĩ, chiếu thư đáo nhật, phàm tại chức dịch giả tất nhưng kỳ cựu. Nhiên dân cửu nhiễm di tục, nghi thiết quan kiêm trị, giáo dĩ Trung Quốc lễ pháp. Lê tặc sổ niên dĩ lai, vi chính nhược mãnh, độc ngược kỳ dân, kim tất phế trừ chi, tuyên bố triều đình chính lệnh, dĩ an chúng thứ. An Nam các xứ quan ải, hữu kết tụ nhân dân thủ bả doanh trại cập đào tị hải đảo giả, chiếu thư đáo nhật, tức tiện giải tán. Kỳ dân ly Lê tặc khốn khổ dĩ cửu, hữu ti nghi thiện phủ tuất, sử an sinh nghiệp, vô trí thất sở. Kỳ quan lại quân dân hữu vi Lê tặc sở hại, hoặc kình thứ đồ phối, hoặc toàn gia lưu tỷ bất đắc kỳ sở, cập nhất ứng bị hại chi nhân, chiếu thư đáo nhật, tất phóng hồi nguyên tịch phục nghiệp, sở tại hữu ti tức tiện khởi phát, vô đắc đình lưu. Kỳ hữu tù hệ ư ngục giả, tức thì phóng khiển. An Nam cảnh nội phàm hữu cao niên thạc đức, hữu ti tức gia lễ đãi. Cập quan quả cô độc chi nhân vô y ỷ giả, vi lập Dưỡng tế viện dĩ tồn tuất chi. Hữu hoài tài bão đức khả dụng chi sĩ, hữu ti dĩ lễ đôn khiển chí kinh, lượng tài ư bản thổ tự dụng. An Nam dữ Chiêm Thành, bách di đẳng xứ tiếp giới, nghi các thủ cương cảnh, vô trí xâm việt, diệc bất hứa quân dân nhân đẳng tư thông ngoại cảnh, tư tự hạ hải phiến dục phiên hóa, vi giả y luật trị tội. Ô hô! Uy vũ tái dương, khởi dư tâm chi sở dục; nguyên ác ký cức, thực hữu chúng chi đồng tình. Quảng thi nhất thị chi nhân, Vĩnh Lạc<ref>Niên hiệu của [[Tác gia:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]]</ref> thái bình chi trị, bố cáo trung ngoại, hàm sử văn tri. </poem> |} ==Dịch nghĩa== {{chú thích cuối trang}} ---- Xem thêm bản tiếng Anh: * Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/reign/yong-le/year-5-month-6-day-1, accessed 19 June 2025 {{PD-old}} [[Thể loại:Văn học Trung Quốc]] [[Thể loại:Chiếu]] an3ov0t2szm72829n5kyhw7xdv6n3kf 195789 195787 2025-06-19T06:46:07Z Mrfly911 2215 /* Dịch nghĩa */ 195789 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 平安南詔 - Bình An Nam chiếu | tác giả = Minh Thành Tổ | dịch giả = | năm = 1407 | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Ngày 5 tháng 7 năm 1407 (Âm lịch: ngày mồng 1 tháng 6 âm lịch năm Vĩnh Lạc thứ 5, tức ngày Quý Mùi), [[w:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]] (Chu Lệ) sau khi xuất binh tiến đánh nước An Nam do [[w:nhà Hồ|nhà Hồ]] đang nắm quyền, ban chiếu bố cáo thiên hạ. }} ---- {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! &nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 朕祇奉皇圖,恪尊成憲,弘敷至化,期四海之樂,永保太和,俾萬物之咸遂,夙夜兢業,弗敢怠遑。仰惟皇考太祖高皇帝混一天下,懷柔遠人,安南陳日煃慕義向風,率先職貢,遂封為安南王,世有其土。比者,賊臣黎季犛及子蒼弒其國主,戕及闔家,毒痛生民,怨聲載路,詭易姓名為胡一元,子為胡𡗨,隱蔽其實,詭稱陳甥,誑言陳氏絕嗣,請求襲封,朕念國人無統,聽允所云。幸成奸謀,肆無忌憚,自謂聖優三皇,德高五帝,以文武為不足法,周孔為不足師,僭國號曰大虞,紀年元聖,自稱兩宮皇帝,冒用朝廷禮儀,招納逋逃,陽奉正朔;覬覦南詔,窺伺廣西,據思明府之數州,侵寧遠州之七寨,虜其子女,毆其人民,欺占城孱弱,奪其土疆,逼與章服,要其貢賦;累使曉諭,怙惡弗悛;安南王孫奔竄來訴,稱賊謬陳誠款,請迎君之,乃伏兵要殺於途,拒辱朝使;朕遣人賜占城禮物,又劫使臣而奪之。蠢茲凶竪,積惡如山,四海之所不容,神人之所憤怒。興言至此,衋然傷懷,實不得已,是用興師,期伐罪以吊民,將興滅而繼絕,爰命總兵官征夷將軍新城侯張輔等率師八十萬討之,飛度富良,深入逆境,桓桓虎旅,威名雷霆,業業凶徒,勢如拉朽,七百萬之眾須臾而盡,二千里之國次第皆平,生擒逆賊黎季犛及子黎蒼、黎澄與其家屬,並偽將相官僚徐季貔、胡杜等,撫納降附,綏輯良善,遍求陳氏子孫立之,其國之官吏、耆老人等咸稱為黎賊殺戮已盡,無可繼承,又稱:「安南本古交州,為中國郡縣,論污夷習,及茲有年,今幸泛掃欃槍,磢剷蕪穢,原復古郡縣,與民更新。」朕俯徇輿情,人其所請,置交址都指揮使司、交址等處承宣布政使司、交址等處提刑按察使司及軍民衙門,設官分理,廓清海徼之妖氛,變革遐邦之舊俗,所有合行事宜,條列於後,安南王陳氏為黎賊所弒,死於非命,宜與贈謚,慰其幽冥;其子孫宗族有為黎賊所害者,宜贈以官,有司皆具名來聞。陳氏子孫既為黎賊盡戮,宗祀廢絕,有司宜與建祠,其墳墓蕪廢,宜與修治,祠墳各給民三十戶供祭掃。安南官吏軍民人等為黎賊驅迫死亡者眾,暴露可憫,有司即為埋瘞。安南郡縣官吏皆陳氏舊人,為黎賊威脅,本非得已,詔書到日,凡在職役者悉仍其舊。然民久染夷俗,宜設官兼治,教以中國禮法。黎賊數年以來,為政若猛,毒虐其民,今悉廢除之,宣布朝廷政令,以安眾庶。安南各處關隘,有結聚人民守把營寨及逃避海島者,詔書到日,即便解散。其民罹黎賊困苦已久,有司宜善撫恤,使安生業,無致失所。其官吏軍民有為黎賊所害,或黥刺徒配,或全家流徙不得其所,及一應被害之人,詔書到日,悉放回原籍復業,所在有司即便起發,毋得停留。其有囚繫於獄者,即時放遣。安南境內凡有高年碩德,有司即加禮待。及鰥寡孤獨之人無依倚者,為立養濟院以存恤之。有懷才抱德可用之士,有司以禮敦遣至京,量才於本土敍用。安南與占城、百夷等處接界,宜各守疆境,毋致侵越,亦不許軍民人等私通外境,私自下海販鬻番貨,違者依律治罪。於戲!威武再揚,豈予心之所欲;元惡既殛,實有眾之同情。廣施一視之仁,永樂太平之治,布告中外,咸使聞知。 </poem> | <poem> Trẫm kỳ phụng hoàng đồ, khác tôn thành hiến, hoằng phu chí hóa, kỳ tứ hải chi lạc, vĩnh bảo thái hòa, tỷ vạn vật chi hàm toại, túc dạ căng nghiệp, phất cảm đãi hoàng. Ngưỡng duy Hoàng khảo Thái Tổ Cao Hoàng đế<ref>Tức [[w:Minh Thái Tổ|Minh Thái Tổ]]</ref> hỗn nhất thiên hạ, hoài nhu viễn nhân, An Nam Trần Nhật Khuê<ref>Tức [[Tác gia:Trần Dụ Tông|Trần Dụ Tông]]</ref> mộ nghĩa hướng phong, suất tiên chức cống, toại phong vi An Nam vương, thế hữu kỳ thổ. Bỉ giả, tặc thần Lê Quý Ly cập tử Thương<ref>Tức cha con [[Tác gia:Hồ Quý Ly|Hồ Quý Ly]] và [[w:Hồ Hán Thương|Hồ Hán Thương]]</ref> thí kỳ quốc chủ, tường cập hạp gia, độc thống sinh dân, oán thanh tái lộ, quỷ dịch tính danh vi Hồ Nhất Nguyên, tử vi Hồ Đê, ẩn tế kỳ thực, quỷ xưng Trần sanh, cuống ngôn Trần thị tuyệt tự, thỉnh cầu tập phong, trẫm niệm quốc nhân vô thống, thính doãn sở vân. Hạnh thành gian mưu, tứ vô kỵ đạn, tự vị thánh ưu Tam hoàng, đức cao Ngũ đế<ref>Xem [[w:Tam Hoàng Ngũ Đế|Tam hoàng Ngũ đế]]</ref>, dĩ Văn Vũ<ref>Tức [[w:Cơ Xương|Chu Văn vương]] và [[w:Chu Vũ vương|Chu Vũ vương]]</ref> vi bất túc pháp, Chu Khổng<ref>Tức [[w:Chu công Đán|Chu công]] và [[w:Khổng Tử|Khổng Tử]]</ref> vi bất túc sư, tiếm quốc hiệu viết Đại Ngu, kỷ niên Nguyên Thánh, tự xưng lưỡng cung Hoàng đế, mạo dụng triều đình lễ nghi, chiêu nạp bô đào, dương phụng chính sóc; ký du Nam Chiếu, khuy tý Quảng Tây, cứ Tư Minh phủ chi sổ châu, xâm Ninh Viễn châu chi thất trại, lỗ kỳ tử nữ, ẩu kỳ nhân dân, khi Chiêm Thành sàn nhược, đoạt kỳ thổ cương, bức dữ chương phục, yếu kỳ cống phú; luy sử hiểu dụ, hỗ ác phất thuân; An Nam vương tôn<ref>Tức [[w:Trần Thiêm Bình|Trần Thiêm Bình]]</ref> bôn thoán lai tố, xưng tặc mậu trần thành khoản, thỉnh nghênh quân chi, nãi phục binh yếu sát ư đồ, cự nhục triều sứ; trẫm khiển nhân tứ Chiêm Thành lễ vật, hựu kiếp sứ thần nhi đoạt chi. Xuẩn tư hung thụ, tích ác như sơn, tứ hải chi sở bất dung, thần nhân chi sở phẫn nộ. Hưng ngôn chí thử, hực nhiên thương hoài, thực bất đắc dĩ, thị dụng hưng sư, kỳ phạt tội dĩ điếu dân, tương hưng diệt nhi kế tuyệt, viên mệnh Tổng binh quan Chinh Di tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ đẳng suất sư bát thập vạn thảo chi, phi độ Phú Lương, thâm nhập nghịch cảnh, hoàn hoàn hổ lữ, uy danh lôi đình, nghiệp nghiệp hung đồ, thế như lạp hủ, thất bách vạn chi chúng tu du nhi tận, nhị thiên lý chi quốc thứ đệ giai bình, sinh cầm nghịch tặc Lê Quý Ly cập tử Lê Thương, Lê Trừng<ref>Tức [[Tác gia:Hồ Nguyên Trừng|Hồ Nguyên Trừng]]</ref> dữ kỳ gia thuộc, tịnh ngụy tướng tương quan liêu Từ Quý Tỳ<ref>Tức Hồ Quý Tỳ, em ruột Hồ Quý Ly</ref>, Hồ Đỗ đẳng, phủ nạp hàng phụ, tuy tập lương thiện, biến cầu Trần thị tử tôn lập chi, kỳ quốc chi quan lại, kỳ lão nhân đẳng hàm xưng vi Lê tặc sát lục dĩ tận, vô khả kế thừa, hựu xưng: "An Nam bản cổ Giao Châu, vi Trung Quốc quận huyện, luận ô di tập, cập tư hữu niên, kim hạnh phiếm tảo sàm thương, sưởng sản vu uế, nguyên phục cổ quận huyện, dữ dân canh tân". Trẫm phủ tuẫn dư tình, nhân kỳ sở thỉnh, trí Giao Chỉ Đô chỉ huy sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Thừa tuyên Bố chính sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Đề hình Án sát sứ ti, cập quân dân nha môn, thiết quan phân lý, khuếch thanh hải kiếu chi yêu phân, biến cách hà bang chi cựu tục, sở hữu hợp hành sự nghi, điều liệt ư hậu, An Nam vương Trần thị vi Lê tặc sở thí, tử ư phi mệnh, nghi dữ tặng thụy, úy kỳ u minh; kỳ tử tôn tông tộc hữu vi Lê tặc sở hại giả, nghi tặng dĩ quan, hữu ti giai cụ danh lai văn. Trần thị tử tôn ký vi Lê tặc tận lục, tông tự phế tuyệt, hữu ti nghi dữ kiến từ, kỳ phần mộ vu phế, nghi dữ tu trì, từ phần các cấp dân tam thập hộ cung tế tảo. An Nam quan lại quân dân nhân đẳng vi Lê tặc khu bách tử vong giả chúng, bạo lộ khả mẫn, hữu ti tức vi mai ế. An Nam quận huyện quan lại giai Trần thị cựu nhân, vi Lê tặc uy hiếp, bản phi đắc dĩ, chiếu thư đáo nhật, phàm tại chức dịch giả tất nhưng kỳ cựu. Nhiên dân cửu nhiễm di tục, nghi thiết quan kiêm trị, giáo dĩ Trung Quốc lễ pháp. Lê tặc sổ niên dĩ lai, vi chính nhược mãnh, độc ngược kỳ dân, kim tất phế trừ chi, tuyên bố triều đình chính lệnh, dĩ an chúng thứ. An Nam các xứ quan ải, hữu kết tụ nhân dân thủ bả doanh trại cập đào tị hải đảo giả, chiếu thư đáo nhật, tức tiện giải tán. Kỳ dân ly Lê tặc khốn khổ dĩ cửu, hữu ti nghi thiện phủ tuất, sử an sinh nghiệp, vô trí thất sở. Kỳ quan lại quân dân hữu vi Lê tặc sở hại, hoặc kình thứ đồ phối, hoặc toàn gia lưu tỷ bất đắc kỳ sở, cập nhất ứng bị hại chi nhân, chiếu thư đáo nhật, tất phóng hồi nguyên tịch phục nghiệp, sở tại hữu ti tức tiện khởi phát, vô đắc đình lưu. Kỳ hữu tù hệ ư ngục giả, tức thì phóng khiển. An Nam cảnh nội phàm hữu cao niên thạc đức, hữu ti tức gia lễ đãi. Cập quan quả cô độc chi nhân vô y ỷ giả, vi lập Dưỡng tế viện dĩ tồn tuất chi. Hữu hoài tài bão đức khả dụng chi sĩ, hữu ti dĩ lễ đôn khiển chí kinh, lượng tài ư bản thổ tự dụng. An Nam dữ Chiêm Thành, bách di đẳng xứ tiếp giới, nghi các thủ cương cảnh, vô trí xâm việt, diệc bất hứa quân dân nhân đẳng tư thông ngoại cảnh, tư tự hạ hải phiến dục phiên hóa, vi giả y luật trị tội. Ô hô! Uy vũ tái dương, khởi dư tâm chi sở dục; nguyên ác ký cức, thực hữu chúng chi đồng tình. Quảng thi nhất thị chi nhân, Vĩnh Lạc<ref>Niên hiệu của [[Tác gia:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]]</ref> thái bình chi trị, bố cáo trung ngoại, hàm sử văn tri. </poem> |} ==Dịch nghĩa== Trẫm kính cẩn tiếp nhận việc trị vì thiên hạ, một lòng noi theo khuôn phép, rộng truyền ảnh hưởng của bậc Thánh hiền. Trẫm mong muốn muôn dân trong bốn bể đều được an vui, thịnh vượng, mãi hưởng thái bình. Như thế, từ sớm đến tối, ai nấy đều chuyên cần làm việc, không ai dám lười nhác. Kính ghi rằng, tiên hoàng – Cao Hoàng Đế Thái Tổ – đã thống nhất thiên hạ, yêu thương cả những dân tộc nơi xa. Trần Nhật Quý nước An Nam kính trọng chính nghĩa, hướng về văn hóa của triều đình. Ông là người đầu tiên đến triều cống, vì thế được phong làm quốc vương nước An Nam, con cháu đời đời nối nghiệp giữ lấy lãnh thổ. {{chú thích cuối trang}} ---- Xem thêm bản tiếng Anh: * Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/reign/yong-le/year-5-month-6-day-1, accessed 19 June 2025 {{PD-old}} [[Thể loại:Văn học Trung Quốc]] [[Thể loại:Chiếu]] sz98w6k5dwgmsqlsgy8nphk5r1uilsl 195791 195789 2025-06-19T06:53:44Z Mrfly911 2215 /* Dịch nghĩa */ 195791 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 平安南詔 - Bình An Nam chiếu | tác giả = Minh Thành Tổ | dịch giả = | năm = 1407 | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Ngày 5 tháng 7 năm 1407 (Âm lịch: ngày mồng 1 tháng 6 âm lịch năm Vĩnh Lạc thứ 5, tức ngày Quý Mùi), [[w:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]] (Chu Lệ) sau khi xuất binh tiến đánh nước An Nam do [[w:nhà Hồ|nhà Hồ]] đang nắm quyền, ban chiếu bố cáo thiên hạ. }} ---- {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! &nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 朕祇奉皇圖,恪尊成憲,弘敷至化,期四海之樂,永保太和,俾萬物之咸遂,夙夜兢業,弗敢怠遑。仰惟皇考太祖高皇帝混一天下,懷柔遠人,安南陳日煃慕義向風,率先職貢,遂封為安南王,世有其土。比者,賊臣黎季犛及子蒼弒其國主,戕及闔家,毒痛生民,怨聲載路,詭易姓名為胡一元,子為胡𡗨,隱蔽其實,詭稱陳甥,誑言陳氏絕嗣,請求襲封,朕念國人無統,聽允所云。幸成奸謀,肆無忌憚,自謂聖優三皇,德高五帝,以文武為不足法,周孔為不足師,僭國號曰大虞,紀年元聖,自稱兩宮皇帝,冒用朝廷禮儀,招納逋逃,陽奉正朔;覬覦南詔,窺伺廣西,據思明府之數州,侵寧遠州之七寨,虜其子女,毆其人民,欺占城孱弱,奪其土疆,逼與章服,要其貢賦;累使曉諭,怙惡弗悛;安南王孫奔竄來訴,稱賊謬陳誠款,請迎君之,乃伏兵要殺於途,拒辱朝使;朕遣人賜占城禮物,又劫使臣而奪之。蠢茲凶竪,積惡如山,四海之所不容,神人之所憤怒。興言至此,衋然傷懷,實不得已,是用興師,期伐罪以吊民,將興滅而繼絕,爰命總兵官征夷將軍新城侯張輔等率師八十萬討之,飛度富良,深入逆境,桓桓虎旅,威名雷霆,業業凶徒,勢如拉朽,七百萬之眾須臾而盡,二千里之國次第皆平,生擒逆賊黎季犛及子黎蒼、黎澄與其家屬,並偽將相官僚徐季貔、胡杜等,撫納降附,綏輯良善,遍求陳氏子孫立之,其國之官吏、耆老人等咸稱為黎賊殺戮已盡,無可繼承,又稱:「安南本古交州,為中國郡縣,論污夷習,及茲有年,今幸泛掃欃槍,磢剷蕪穢,原復古郡縣,與民更新。」朕俯徇輿情,人其所請,置交址都指揮使司、交址等處承宣布政使司、交址等處提刑按察使司及軍民衙門,設官分理,廓清海徼之妖氛,變革遐邦之舊俗,所有合行事宜,條列於後,安南王陳氏為黎賊所弒,死於非命,宜與贈謚,慰其幽冥;其子孫宗族有為黎賊所害者,宜贈以官,有司皆具名來聞。陳氏子孫既為黎賊盡戮,宗祀廢絕,有司宜與建祠,其墳墓蕪廢,宜與修治,祠墳各給民三十戶供祭掃。安南官吏軍民人等為黎賊驅迫死亡者眾,暴露可憫,有司即為埋瘞。安南郡縣官吏皆陳氏舊人,為黎賊威脅,本非得已,詔書到日,凡在職役者悉仍其舊。然民久染夷俗,宜設官兼治,教以中國禮法。黎賊數年以來,為政若猛,毒虐其民,今悉廢除之,宣布朝廷政令,以安眾庶。安南各處關隘,有結聚人民守把營寨及逃避海島者,詔書到日,即便解散。其民罹黎賊困苦已久,有司宜善撫恤,使安生業,無致失所。其官吏軍民有為黎賊所害,或黥刺徒配,或全家流徙不得其所,及一應被害之人,詔書到日,悉放回原籍復業,所在有司即便起發,毋得停留。其有囚繫於獄者,即時放遣。安南境內凡有高年碩德,有司即加禮待。及鰥寡孤獨之人無依倚者,為立養濟院以存恤之。有懷才抱德可用之士,有司以禮敦遣至京,量才於本土敍用。安南與占城、百夷等處接界,宜各守疆境,毋致侵越,亦不許軍民人等私通外境,私自下海販鬻番貨,違者依律治罪。於戲!威武再揚,豈予心之所欲;元惡既殛,實有眾之同情。廣施一視之仁,永樂太平之治,布告中外,咸使聞知。 </poem> | <poem> Trẫm kỳ phụng hoàng đồ, khác tôn thành hiến, hoằng phu chí hóa, kỳ tứ hải chi lạc, vĩnh bảo thái hòa, tỷ vạn vật chi hàm toại, túc dạ căng nghiệp, phất cảm đãi hoàng. Ngưỡng duy Hoàng khảo Thái Tổ Cao Hoàng đế<ref>Tức [[w:Minh Thái Tổ|Minh Thái Tổ]]</ref> hỗn nhất thiên hạ, hoài nhu viễn nhân, An Nam Trần Nhật Khuê<ref>Tức [[Tác gia:Trần Dụ Tông|Trần Dụ Tông]]</ref> mộ nghĩa hướng phong, suất tiên chức cống, toại phong vi An Nam vương, thế hữu kỳ thổ. Bỉ giả, tặc thần Lê Quý Ly cập tử Thương<ref>Tức cha con [[Tác gia:Hồ Quý Ly|Hồ Quý Ly]] và [[w:Hồ Hán Thương|Hồ Hán Thương]]</ref> thí kỳ quốc chủ, tường cập hạp gia, độc thống sinh dân, oán thanh tái lộ, quỷ dịch tính danh vi Hồ Nhất Nguyên, tử vi Hồ Đê, ẩn tế kỳ thực, quỷ xưng Trần sanh, cuống ngôn Trần thị tuyệt tự, thỉnh cầu tập phong, trẫm niệm quốc nhân vô thống, thính doãn sở vân. Hạnh thành gian mưu, tứ vô kỵ đạn, tự vị thánh ưu Tam hoàng, đức cao Ngũ đế<ref>Xem [[w:Tam Hoàng Ngũ Đế|Tam hoàng Ngũ đế]]</ref>, dĩ Văn Vũ<ref>Tức [[w:Cơ Xương|Chu Văn vương]] và [[w:Chu Vũ vương|Chu Vũ vương]]</ref> vi bất túc pháp, Chu Khổng<ref>Tức [[w:Chu công Đán|Chu công]] và [[w:Khổng Tử|Khổng Tử]]</ref> vi bất túc sư, tiếm quốc hiệu viết Đại Ngu, kỷ niên Nguyên Thánh, tự xưng lưỡng cung Hoàng đế, mạo dụng triều đình lễ nghi, chiêu nạp bô đào, dương phụng chính sóc; ký du Nam Chiếu, khuy tý Quảng Tây, cứ Tư Minh phủ chi sổ châu, xâm Ninh Viễn châu chi thất trại, lỗ kỳ tử nữ, ẩu kỳ nhân dân, khi Chiêm Thành sàn nhược, đoạt kỳ thổ cương, bức dữ chương phục, yếu kỳ cống phú; luy sử hiểu dụ, hỗ ác phất thuân; An Nam vương tôn<ref>Tức [[w:Trần Thiêm Bình|Trần Thiêm Bình]]</ref> bôn thoán lai tố, xưng tặc mậu trần thành khoản, thỉnh nghênh quân chi, nãi phục binh yếu sát ư đồ, cự nhục triều sứ; trẫm khiển nhân tứ Chiêm Thành lễ vật, hựu kiếp sứ thần nhi đoạt chi. Xuẩn tư hung thụ, tích ác như sơn, tứ hải chi sở bất dung, thần nhân chi sở phẫn nộ. Hưng ngôn chí thử, hực nhiên thương hoài, thực bất đắc dĩ, thị dụng hưng sư, kỳ phạt tội dĩ điếu dân, tương hưng diệt nhi kế tuyệt, viên mệnh Tổng binh quan Chinh Di tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ đẳng suất sư bát thập vạn thảo chi, phi độ Phú Lương, thâm nhập nghịch cảnh, hoàn hoàn hổ lữ, uy danh lôi đình, nghiệp nghiệp hung đồ, thế như lạp hủ, thất bách vạn chi chúng tu du nhi tận, nhị thiên lý chi quốc thứ đệ giai bình, sinh cầm nghịch tặc Lê Quý Ly cập tử Lê Thương, Lê Trừng<ref>Tức [[Tác gia:Hồ Nguyên Trừng|Hồ Nguyên Trừng]]</ref> dữ kỳ gia thuộc, tịnh ngụy tướng tương quan liêu Từ Quý Tỳ<ref>Tức Hồ Quý Tỳ, em ruột Hồ Quý Ly</ref>, Hồ Đỗ đẳng, phủ nạp hàng phụ, tuy tập lương thiện, biến cầu Trần thị tử tôn lập chi, kỳ quốc chi quan lại, kỳ lão nhân đẳng hàm xưng vi Lê tặc sát lục dĩ tận, vô khả kế thừa, hựu xưng: "An Nam bản cổ Giao Châu, vi Trung Quốc quận huyện, luận ô di tập, cập tư hữu niên, kim hạnh phiếm tảo sàm thương, sưởng sản vu uế, nguyên phục cổ quận huyện, dữ dân canh tân". Trẫm phủ tuẫn dư tình, nhân kỳ sở thỉnh, trí Giao Chỉ Đô chỉ huy sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Thừa tuyên Bố chính sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Đề hình Án sát sứ ti, cập quân dân nha môn, thiết quan phân lý, khuếch thanh hải kiếu chi yêu phân, biến cách hà bang chi cựu tục, sở hữu hợp hành sự nghi, điều liệt ư hậu, An Nam vương Trần thị vi Lê tặc sở thí, tử ư phi mệnh, nghi dữ tặng thụy, úy kỳ u minh; kỳ tử tôn tông tộc hữu vi Lê tặc sở hại giả, nghi tặng dĩ quan, hữu ti giai cụ danh lai văn. Trần thị tử tôn ký vi Lê tặc tận lục, tông tự phế tuyệt, hữu ti nghi dữ kiến từ, kỳ phần mộ vu phế, nghi dữ tu trì, từ phần các cấp dân tam thập hộ cung tế tảo. An Nam quan lại quân dân nhân đẳng vi Lê tặc khu bách tử vong giả chúng, bạo lộ khả mẫn, hữu ti tức vi mai ế. An Nam quận huyện quan lại giai Trần thị cựu nhân, vi Lê tặc uy hiếp, bản phi đắc dĩ, chiếu thư đáo nhật, phàm tại chức dịch giả tất nhưng kỳ cựu. Nhiên dân cửu nhiễm di tục, nghi thiết quan kiêm trị, giáo dĩ Trung Quốc lễ pháp. Lê tặc sổ niên dĩ lai, vi chính nhược mãnh, độc ngược kỳ dân, kim tất phế trừ chi, tuyên bố triều đình chính lệnh, dĩ an chúng thứ. An Nam các xứ quan ải, hữu kết tụ nhân dân thủ bả doanh trại cập đào tị hải đảo giả, chiếu thư đáo nhật, tức tiện giải tán. Kỳ dân ly Lê tặc khốn khổ dĩ cửu, hữu ti nghi thiện phủ tuất, sử an sinh nghiệp, vô trí thất sở. Kỳ quan lại quân dân hữu vi Lê tặc sở hại, hoặc kình thứ đồ phối, hoặc toàn gia lưu tỷ bất đắc kỳ sở, cập nhất ứng bị hại chi nhân, chiếu thư đáo nhật, tất phóng hồi nguyên tịch phục nghiệp, sở tại hữu ti tức tiện khởi phát, vô đắc đình lưu. Kỳ hữu tù hệ ư ngục giả, tức thì phóng khiển. An Nam cảnh nội phàm hữu cao niên thạc đức, hữu ti tức gia lễ đãi. Cập quan quả cô độc chi nhân vô y ỷ giả, vi lập Dưỡng tế viện dĩ tồn tuất chi. Hữu hoài tài bão đức khả dụng chi sĩ, hữu ti dĩ lễ đôn khiển chí kinh, lượng tài ư bản thổ tự dụng. An Nam dữ Chiêm Thành, bách di đẳng xứ tiếp giới, nghi các thủ cương cảnh, vô trí xâm việt, diệc bất hứa quân dân nhân đẳng tư thông ngoại cảnh, tư tự hạ hải phiến dục phiên hóa, vi giả y luật trị tội. Ô hô! Uy vũ tái dương, khởi dư tâm chi sở dục; nguyên ác ký cức, thực hữu chúng chi đồng tình. Quảng thi nhất thị chi nhân, Vĩnh Lạc<ref>Niên hiệu của [[Tác gia:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]]</ref> thái bình chi trị, bố cáo trung ngoại, hàm sử văn tri. </poem> |} ==Dịch nghĩa== Trẫm kính cẩn tiếp nhận việc trị vì thiên hạ, một lòng noi theo khuôn phép, rộng truyền ảnh hưởng của bậc Thánh hiền. Trẫm mong muốn muôn dân trong bốn bể đều được an vui, thịnh vượng, mãi hưởng thái bình. Như thế, từ sớm đến tối, ai nấy đều chuyên cần làm việc, không ai dám lười nhác. Kính ghi rằng, tiên hoàng – Cao Hoàng Đế Thái Tổ (Minh Thái Tổ) – đã thống nhất thiên hạ, yêu thương cả những dân tộc nơi xa. Trần Nhật Khuể 日煃 nước An Nam kính trọng chính nghĩa, hướng về văn hóa của triều đình. Ông là người đầu tiên đến triều cống, vì thế được phong làm quốc vương nước An Nam, con cháu đời đời nối nghiệp giữ lấy lãnh thổ. Gần đây, tên gian thần Lê Quý Ly cùng con là Thương đã sát hại quốc vương, tàn sát cả hoàng tộc. Chúng đối xử tàn bạo, hiểm ác với dân chúng, khiến oán hận và bất bình lan tràn khắp phố phường. Lê Quý Ly tự tiện đổi tên thành Hồ Nhất Nguyên, con hắn là Hồ Đê, rồi che giấu sự thật, giả xưng là con cháu họ Trần. Hắn gian trá tuyên bố dòng họ Trần đã tuyệt tự, rồi xin được kế thừa vương vị. Trẫm lo rằng dân chúng sẽ không có người cai trị, nên tạm thuận theo lời hắn. Nhưng hắn lại vui mừng trong gian trá, âm mưu phản nghịch, hành động ngông cuồng không kiêng dè. Hắn tự xưng vượt cả Tam Hoàng, đức hạnh hơn Ngũ Đế, noi gương Văn Vương, Vũ Vương mà còn tự cho là học vấn hơn Chu Công, Khổng Tử. Hắn trái phép lập quốc hiệu là Đại Ngu, niên hiệu là Nguyên Thánh, tự xưng là Lưỡng Cung Hoàng Đế, mô phỏng nghi lễ triều đình. Hắn dung nạp kẻ trốn tránh, giả vờ tôn kính lịch triều đình nhưng lại khát vọng hướng về Nam Chiếu, do thám Quảng Tây, chờ thời cơ. Hắn chiếm cứ nhiều châu thuộc phủ Tư Minh, đoạt bảy đồn trại ở Ninh Viễn, bắt con trai con gái, xua đuổi dân lành. Thừa lúc Chiêm Thành suy yếu, hắn chiếm đất, ép vua Chiêm nhận ấn tín và áo mũ, bắt triều cống và nộp thuế. Triều đình đã nhiều lần sai sứ đến khuyên răn rõ ràng, nhưng hắn vẫn không hối cải, tiếp tục làm điều ác. Một người cháu của quốc vương nước An Nam, từng trốn chạy và ẩn náu, sau đó đến triều đình để trình bày nỗi oan. Tên giặc Ly giả vờ trung thành, xin được phụng sự người cháu ấy như chủ. Nhưng quân của hắn đã phục kích trên đường, sát hại người cháu kia. Hắn còn cản trở và nhục mạ sứ giả của triều đình. Khi trẫm sai người mang lễ vật đến ban cho Chiêm Thành, hắn cũng cướp đoạt sứ giả và chiếm lấy lễ vật. Hắn ngu muội chọn con đường tàn bạo, chất chồng ác nghiệp như núi. Việc ấy không thể dung thứ trong bốn bể, khiến cả thần linh lẫn con người đều phẫn nộ. Trẫm vốn chỉ dùng lời lẽ để khuyên răn, nhưng hắn vẫn tiếp tục gây hại và làm điều ác. Vì thế, không còn cách nào khác ngoài việc khởi binh để trừng phạt kẻ nghịch, an ủi dân chúng, và khôi phục dòng dõi đã bị đoạn tuyệt. {{chú thích cuối trang}} ---- Xem thêm bản tiếng Anh: * Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/reign/yong-le/year-5-month-6-day-1, accessed 19 June 2025 {{PD-old}} [[Thể loại:Văn học Trung Quốc]] [[Thể loại:Chiếu]] 1q6fwa9d2os1x6zv7si0s1snpjpn6bq 195794 195791 2025-06-19T07:06:21Z Mrfly911 2215 /* Dịch nghĩa */ 195794 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 平安南詔 - Bình An Nam chiếu | tác giả = Minh Thành Tổ | dịch giả = | năm = 1407 | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Ngày 5 tháng 7 năm 1407 (Âm lịch: ngày mồng 1 tháng 6 âm lịch năm Vĩnh Lạc thứ 5, tức ngày Quý Mùi), [[w:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]] (Chu Lệ) sau khi xuất binh tiến đánh nước An Nam do [[w:nhà Hồ|nhà Hồ]] đang nắm quyền, ban chiếu bố cáo thiên hạ. }} ---- {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! &nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 朕祇奉皇圖,恪尊成憲,弘敷至化,期四海之樂,永保太和,俾萬物之咸遂,夙夜兢業,弗敢怠遑。仰惟皇考太祖高皇帝混一天下,懷柔遠人,安南陳日煃慕義向風,率先職貢,遂封為安南王,世有其土。比者,賊臣黎季犛及子蒼弒其國主,戕及闔家,毒痛生民,怨聲載路,詭易姓名為胡一元,子為胡𡗨,隱蔽其實,詭稱陳甥,誑言陳氏絕嗣,請求襲封,朕念國人無統,聽允所云。幸成奸謀,肆無忌憚,自謂聖優三皇,德高五帝,以文武為不足法,周孔為不足師,僭國號曰大虞,紀年元聖,自稱兩宮皇帝,冒用朝廷禮儀,招納逋逃,陽奉正朔;覬覦南詔,窺伺廣西,據思明府之數州,侵寧遠州之七寨,虜其子女,毆其人民,欺占城孱弱,奪其土疆,逼與章服,要其貢賦;累使曉諭,怙惡弗悛;安南王孫奔竄來訴,稱賊謬陳誠款,請迎君之,乃伏兵要殺於途,拒辱朝使;朕遣人賜占城禮物,又劫使臣而奪之。蠢茲凶竪,積惡如山,四海之所不容,神人之所憤怒。興言至此,衋然傷懷,實不得已,是用興師,期伐罪以吊民,將興滅而繼絕,爰命總兵官征夷將軍新城侯張輔等率師八十萬討之,飛度富良,深入逆境,桓桓虎旅,威名雷霆,業業凶徒,勢如拉朽,七百萬之眾須臾而盡,二千里之國次第皆平,生擒逆賊黎季犛及子黎蒼、黎澄與其家屬,並偽將相官僚徐季貔、胡杜等,撫納降附,綏輯良善,遍求陳氏子孫立之,其國之官吏、耆老人等咸稱為黎賊殺戮已盡,無可繼承,又稱:「安南本古交州,為中國郡縣,論污夷習,及茲有年,今幸泛掃欃槍,磢剷蕪穢,原復古郡縣,與民更新。」朕俯徇輿情,人其所請,置交址都指揮使司、交址等處承宣布政使司、交址等處提刑按察使司及軍民衙門,設官分理,廓清海徼之妖氛,變革遐邦之舊俗,所有合行事宜,條列於後,安南王陳氏為黎賊所弒,死於非命,宜與贈謚,慰其幽冥;其子孫宗族有為黎賊所害者,宜贈以官,有司皆具名來聞。陳氏子孫既為黎賊盡戮,宗祀廢絕,有司宜與建祠,其墳墓蕪廢,宜與修治,祠墳各給民三十戶供祭掃。安南官吏軍民人等為黎賊驅迫死亡者眾,暴露可憫,有司即為埋瘞。安南郡縣官吏皆陳氏舊人,為黎賊威脅,本非得已,詔書到日,凡在職役者悉仍其舊。然民久染夷俗,宜設官兼治,教以中國禮法。黎賊數年以來,為政若猛,毒虐其民,今悉廢除之,宣布朝廷政令,以安眾庶。安南各處關隘,有結聚人民守把營寨及逃避海島者,詔書到日,即便解散。其民罹黎賊困苦已久,有司宜善撫恤,使安生業,無致失所。其官吏軍民有為黎賊所害,或黥刺徒配,或全家流徙不得其所,及一應被害之人,詔書到日,悉放回原籍復業,所在有司即便起發,毋得停留。其有囚繫於獄者,即時放遣。安南境內凡有高年碩德,有司即加禮待。及鰥寡孤獨之人無依倚者,為立養濟院以存恤之。有懷才抱德可用之士,有司以禮敦遣至京,量才於本土敍用。安南與占城、百夷等處接界,宜各守疆境,毋致侵越,亦不許軍民人等私通外境,私自下海販鬻番貨,違者依律治罪。於戲!威武再揚,豈予心之所欲;元惡既殛,實有眾之同情。廣施一視之仁,永樂太平之治,布告中外,咸使聞知。 </poem> | <poem> Trẫm kỳ phụng hoàng đồ, khác tôn thành hiến, hoằng phu chí hóa, kỳ tứ hải chi lạc, vĩnh bảo thái hòa, tỷ vạn vật chi hàm toại, túc dạ căng nghiệp, phất cảm đãi hoàng. Ngưỡng duy Hoàng khảo Thái Tổ Cao Hoàng đế<ref>Tức [[w:Minh Thái Tổ|Minh Thái Tổ]]</ref> hỗn nhất thiên hạ, hoài nhu viễn nhân, An Nam Trần Nhật Khuê<ref>Tức [[Tác gia:Trần Dụ Tông|Trần Dụ Tông]]</ref> mộ nghĩa hướng phong, suất tiên chức cống, toại phong vi An Nam vương, thế hữu kỳ thổ. Bỉ giả, tặc thần Lê Quý Ly cập tử Thương<ref>Tức cha con [[Tác gia:Hồ Quý Ly|Hồ Quý Ly]] và [[w:Hồ Hán Thương|Hồ Hán Thương]]</ref> thí kỳ quốc chủ, tường cập hạp gia, độc thống sinh dân, oán thanh tái lộ, quỷ dịch tính danh vi Hồ Nhất Nguyên, tử vi Hồ Đê, ẩn tế kỳ thực, quỷ xưng Trần sanh, cuống ngôn Trần thị tuyệt tự, thỉnh cầu tập phong, trẫm niệm quốc nhân vô thống, thính doãn sở vân. Hạnh thành gian mưu, tứ vô kỵ đạn, tự vị thánh ưu Tam hoàng, đức cao Ngũ đế<ref>Xem [[w:Tam Hoàng Ngũ Đế|Tam hoàng Ngũ đế]]</ref>, dĩ Văn Vũ<ref>Tức [[w:Cơ Xương|Chu Văn vương]] và [[w:Chu Vũ vương|Chu Vũ vương]]</ref> vi bất túc pháp, Chu Khổng<ref>Tức [[w:Chu công Đán|Chu công]] và [[w:Khổng Tử|Khổng Tử]]</ref> vi bất túc sư, tiếm quốc hiệu viết Đại Ngu, kỷ niên Nguyên Thánh, tự xưng lưỡng cung Hoàng đế, mạo dụng triều đình lễ nghi, chiêu nạp bô đào, dương phụng chính sóc; ký du Nam Chiếu, khuy tý Quảng Tây, cứ Tư Minh phủ chi sổ châu, xâm Ninh Viễn châu chi thất trại, lỗ kỳ tử nữ, ẩu kỳ nhân dân, khi Chiêm Thành sàn nhược, đoạt kỳ thổ cương, bức dữ chương phục, yếu kỳ cống phú; luy sử hiểu dụ, hỗ ác phất thuân; An Nam vương tôn<ref>Tức [[w:Trần Thiêm Bình|Trần Thiêm Bình]]</ref> bôn thoán lai tố, xưng tặc mậu trần thành khoản, thỉnh nghênh quân chi, nãi phục binh yếu sát ư đồ, cự nhục triều sứ; trẫm khiển nhân tứ Chiêm Thành lễ vật, hựu kiếp sứ thần nhi đoạt chi. Xuẩn tư hung thụ, tích ác như sơn, tứ hải chi sở bất dung, thần nhân chi sở phẫn nộ. Hưng ngôn chí thử, hực nhiên thương hoài, thực bất đắc dĩ, thị dụng hưng sư, kỳ phạt tội dĩ điếu dân, tương hưng diệt nhi kế tuyệt, viên mệnh Tổng binh quan Chinh Di tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ đẳng suất sư bát thập vạn thảo chi, phi độ Phú Lương, thâm nhập nghịch cảnh, hoàn hoàn hổ lữ, uy danh lôi đình, nghiệp nghiệp hung đồ, thế như lạp hủ, thất bách vạn chi chúng tu du nhi tận, nhị thiên lý chi quốc thứ đệ giai bình, sinh cầm nghịch tặc Lê Quý Ly cập tử Lê Thương, Lê Trừng<ref>Tức [[Tác gia:Hồ Nguyên Trừng|Hồ Nguyên Trừng]]</ref> dữ kỳ gia thuộc, tịnh ngụy tướng tương quan liêu Từ Quý Tỳ<ref>Tức Hồ Quý Tỳ, em ruột Hồ Quý Ly</ref>, Hồ Đỗ đẳng, phủ nạp hàng phụ, tuy tập lương thiện, biến cầu Trần thị tử tôn lập chi, kỳ quốc chi quan lại, kỳ lão nhân đẳng hàm xưng vi Lê tặc sát lục dĩ tận, vô khả kế thừa, hựu xưng: "An Nam bản cổ Giao Châu, vi Trung Quốc quận huyện, luận ô di tập, cập tư hữu niên, kim hạnh phiếm tảo sàm thương, sưởng sản vu uế, nguyên phục cổ quận huyện, dữ dân canh tân". Trẫm phủ tuẫn dư tình, nhân kỳ sở thỉnh, trí Giao Chỉ Đô chỉ huy sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Thừa tuyên Bố chính sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Đề hình Án sát sứ ti, cập quân dân nha môn, thiết quan phân lý, khuếch thanh hải kiếu chi yêu phân, biến cách hà bang chi cựu tục, sở hữu hợp hành sự nghi, điều liệt ư hậu, An Nam vương Trần thị vi Lê tặc sở thí, tử ư phi mệnh, nghi dữ tặng thụy, úy kỳ u minh; kỳ tử tôn tông tộc hữu vi Lê tặc sở hại giả, nghi tặng dĩ quan, hữu ti giai cụ danh lai văn. Trần thị tử tôn ký vi Lê tặc tận lục, tông tự phế tuyệt, hữu ti nghi dữ kiến từ, kỳ phần mộ vu phế, nghi dữ tu trì, từ phần các cấp dân tam thập hộ cung tế tảo. An Nam quan lại quân dân nhân đẳng vi Lê tặc khu bách tử vong giả chúng, bạo lộ khả mẫn, hữu ti tức vi mai ế. An Nam quận huyện quan lại giai Trần thị cựu nhân, vi Lê tặc uy hiếp, bản phi đắc dĩ, chiếu thư đáo nhật, phàm tại chức dịch giả tất nhưng kỳ cựu. Nhiên dân cửu nhiễm di tục, nghi thiết quan kiêm trị, giáo dĩ Trung Quốc lễ pháp. Lê tặc sổ niên dĩ lai, vi chính nhược mãnh, độc ngược kỳ dân, kim tất phế trừ chi, tuyên bố triều đình chính lệnh, dĩ an chúng thứ. An Nam các xứ quan ải, hữu kết tụ nhân dân thủ bả doanh trại cập đào tị hải đảo giả, chiếu thư đáo nhật, tức tiện giải tán. Kỳ dân ly Lê tặc khốn khổ dĩ cửu, hữu ti nghi thiện phủ tuất, sử an sinh nghiệp, vô trí thất sở. Kỳ quan lại quân dân hữu vi Lê tặc sở hại, hoặc kình thứ đồ phối, hoặc toàn gia lưu tỷ bất đắc kỳ sở, cập nhất ứng bị hại chi nhân, chiếu thư đáo nhật, tất phóng hồi nguyên tịch phục nghiệp, sở tại hữu ti tức tiện khởi phát, vô đắc đình lưu. Kỳ hữu tù hệ ư ngục giả, tức thì phóng khiển. An Nam cảnh nội phàm hữu cao niên thạc đức, hữu ti tức gia lễ đãi. Cập quan quả cô độc chi nhân vô y ỷ giả, vi lập Dưỡng tế viện dĩ tồn tuất chi. Hữu hoài tài bão đức khả dụng chi sĩ, hữu ti dĩ lễ đôn khiển chí kinh, lượng tài ư bản thổ tự dụng. An Nam dữ Chiêm Thành, bách di đẳng xứ tiếp giới, nghi các thủ cương cảnh, vô trí xâm việt, diệc bất hứa quân dân nhân đẳng tư thông ngoại cảnh, tư tự hạ hải phiến dục phiên hóa, vi giả y luật trị tội. Ô hô! Uy vũ tái dương, khởi dư tâm chi sở dục; nguyên ác ký cức, thực hữu chúng chi đồng tình. Quảng thi nhất thị chi nhân, Vĩnh Lạc<ref>Niên hiệu của [[Tác gia:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]]</ref> thái bình chi trị, bố cáo trung ngoại, hàm sử văn tri. </poem> |} ==Dịch nghĩa== Trẫm kính cẩn tiếp nhận việc trị vì thiên hạ, một lòng noi theo khuôn phép, rộng truyền ảnh hưởng của bậc Thánh hiền. Trẫm mong muốn muôn dân trong bốn bể đều được an vui, thịnh vượng, mãi hưởng thái bình. Như thế, từ sớm đến tối, ai nấy đều chuyên cần làm việc, không ai dám lười nhác. Kính ghi rằng, tiên hoàng – Cao Hoàng Đế Thái Tổ (Minh Thái Tổ) – đã thống nhất thiên hạ, yêu thương cả những dân tộc nơi xa. Trần Nhật Khuể 日煃 nước An Nam kính trọng chính nghĩa, hướng về văn hóa của triều đình. Ông là người đầu tiên đến triều cống, vì thế được phong làm quốc vương nước An Nam, con cháu đời đời nối nghiệp giữ lấy lãnh thổ. Gần đây, tên gian thần Lê Quý Ly cùng con là Thương đã sát hại quốc vương, tàn sát cả hoàng tộc. Chúng đối xử tàn bạo, hiểm ác với dân chúng, khiến oán hận và bất bình lan tràn khắp phố phường. Lê Quý Ly tự tiện đổi tên thành Hồ Nhất Nguyên, con hắn là Hồ Đê, rồi che giấu sự thật, giả xưng là con cháu họ Trần. Hắn gian trá tuyên bố dòng họ Trần đã tuyệt tự, rồi xin được kế thừa vương vị. Trẫm lo rằng dân chúng sẽ không có người cai trị, nên tạm thuận theo lời hắn. Nhưng hắn lại vui mừng trong gian trá, âm mưu phản nghịch, hành động ngông cuồng không kiêng dè. Hắn tự xưng vượt cả Tam Hoàng, đức hạnh hơn Ngũ Đế, noi gương Văn Vương, Vũ Vương mà còn tự cho là học vấn hơn Chu Công, Khổng Tử. Hắn trái phép lập quốc hiệu là Đại Ngu, niên hiệu là Nguyên Thánh, tự xưng là Lưỡng Cung Hoàng Đế, mô phỏng nghi lễ triều đình. Hắn dung nạp kẻ trốn tránh, giả vờ tôn kính lịch triều đình nhưng lại khát vọng hướng về Nam Chiếu, do thám Quảng Tây, chờ thời cơ. Hắn chiếm cứ nhiều châu thuộc phủ Tư Minh, đoạt bảy đồn trại ở Ninh Viễn, bắt con trai con gái, xua đuổi dân lành. Thừa lúc Chiêm Thành suy yếu, hắn chiếm đất, ép vua Chiêm nhận ấn tín và áo mũ, bắt triều cống và nộp thuế. Triều đình đã nhiều lần sai sứ đến khuyên răn rõ ràng, nhưng hắn vẫn không hối cải, tiếp tục làm điều ác. Một người cháu của quốc vương nước An Nam, từng trốn chạy và ẩn náu, sau đó đến triều đình để trình bày nỗi oan. Tên giặc Ly giả vờ trung thành, xin được phụng sự người cháu ấy như chủ. Nhưng quân của hắn đã phục kích trên đường, sát hại người cháu kia. Hắn còn cản trở và nhục mạ sứ giả của triều đình. Khi trẫm sai người mang lễ vật đến ban cho Chiêm Thành, hắn cũng cướp đoạt sứ giả và chiếm lấy lễ vật. Hắn ngu muội chọn con đường tàn bạo, chất chồng ác nghiệp như núi. Việc ấy không thể dung thứ trong bốn bể, khiến cả thần linh lẫn con người đều phẫn nộ. Trẫm vốn chỉ dùng lời lẽ để khuyên răn, nhưng hắn vẫn tiếp tục gây hại và làm điều ác. Vì thế, không còn cách nào khác ngoài việc khởi binh để trừng phạt kẻ nghịch, an ủi dân chúng, và khôi phục dòng dõi đã bị đoạn tuyệt. Trương Phụ, tước Tân Thành hầu, được sắc phong làm Chinh Di Tướng Quân kiêm Tổng chỉ huy khu vực, cùng các tướng lĩnh khác dẫn đại quân tám trăm nghìn binh sĩ tiến đánh kẻ phản nghịch. Đoàn quân vượt nhanh sông Phú Lương, tiến sâu vào đất giặc. Thế quân như sấm sét, khiến bọn phản loạn hoảng loạn, tan rã như gỗ mục. Bảy triệu quân giặc bị tiêu diệt trong chớp mắt. Sau đó, vùng đất rộng hai nghìn dặm được hoàn toàn bình định. Tên giặc phản Lê Quý Ly, cùng các con là Lê Thương, Lê Trừng và toàn bộ gia quyến bị bắt sống. Các tướng giả, quan lại ngụy như Lê Quý Tỳ, Hồ Đỗ và những kẻ đồng đảng cũng đều bị bắt giữ. Những người quy thuận và trở lại thần phục đều được chăm sóc chu đáo, người hiền đức được an ủi và khuyến khích. Triều đình đã tìm kiếm khắp nơi hậu duệ nam của dòng họ Trần để lập làm vua. Nhưng các quan lại và bô lão trong nước đều tâu rằng bọn giặc họ Lê (Quý Ly) đã giết sạch nam nhân trong hoàng tộc, không còn ai có thể kế vị ngai vàng. Họ cũng nói rằng An Nam xưa vốn là Giao Châu, một đơn vị hành chính của Trung Quốc, nhưng về sau dân chúng rơi vào lối sống man di, kéo dài nhiều năm. Nay, họ vui mừng vì tên phản loạn đã bị tiêu diệt, cỏ dại đã được nhổ sạch, và mong muốn khôi phục lại các châu huyện xưa, chấn hưng dân chúng. Trẫm thuận theo lòng dân, chuẩn y lời thỉnh cầu ấy. Vì thế, Trẫm thiết lập Ủy ban Quân sự khu vực Giao Chỉ, cùng với cơ quan hành chính tỉnh Giao Chỉ và các nơi khác, và cơ quan giám sát tỉnh Giao Chỉ và các nơi khác, đồng thời đặt các nha môn quân sự và dân sự, bổ nhiệm quan lại để cai trị. Những ảnh hưởng tà ác từng lan tràn nơi biên viễn ven biển sẽ bị loại bỏ, và phong tục cũ của vùng đất xa xôi này sẽ được cải biến. Các biện pháp thích hợp được liệt kê dưới đây. {{chú thích cuối trang}} ---- Xem thêm bản tiếng Anh: * Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/reign/yong-le/year-5-month-6-day-1, accessed 19 June 2025 {{PD-old}} [[Thể loại:Văn học Trung Quốc]] [[Thể loại:Chiếu]] 4cn40f5rtmw30s3pjs63h09hz4jx60i 195797 195794 2025-06-19T07:12:44Z Mrfly911 2215 /* Dịch nghĩa */ Dùng Copilot dịch bản tiếng Anh của Wade phần chiếu thư. 195797 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 平安南詔 - Bình An Nam chiếu | tác giả = Minh Thành Tổ | dịch giả = | năm = 1407 | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Ngày 5 tháng 7 năm 1407 (Âm lịch: ngày mồng 1 tháng 6 âm lịch năm Vĩnh Lạc thứ 5, tức ngày Quý Mùi), [[w:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]] (Chu Lệ) sau khi xuất binh tiến đánh nước An Nam do [[w:nhà Hồ|nhà Hồ]] đang nắm quyền, ban chiếu bố cáo thiên hạ. }} ---- {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! &nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 朕祇奉皇圖,恪尊成憲,弘敷至化,期四海之樂,永保太和,俾萬物之咸遂,夙夜兢業,弗敢怠遑。仰惟皇考太祖高皇帝混一天下,懷柔遠人,安南陳日煃慕義向風,率先職貢,遂封為安南王,世有其土。比者,賊臣黎季犛及子蒼弒其國主,戕及闔家,毒痛生民,怨聲載路,詭易姓名為胡一元,子為胡𡗨,隱蔽其實,詭稱陳甥,誑言陳氏絕嗣,請求襲封,朕念國人無統,聽允所云。幸成奸謀,肆無忌憚,自謂聖優三皇,德高五帝,以文武為不足法,周孔為不足師,僭國號曰大虞,紀年元聖,自稱兩宮皇帝,冒用朝廷禮儀,招納逋逃,陽奉正朔;覬覦南詔,窺伺廣西,據思明府之數州,侵寧遠州之七寨,虜其子女,毆其人民,欺占城孱弱,奪其土疆,逼與章服,要其貢賦;累使曉諭,怙惡弗悛;安南王孫奔竄來訴,稱賊謬陳誠款,請迎君之,乃伏兵要殺於途,拒辱朝使;朕遣人賜占城禮物,又劫使臣而奪之。蠢茲凶竪,積惡如山,四海之所不容,神人之所憤怒。興言至此,衋然傷懷,實不得已,是用興師,期伐罪以吊民,將興滅而繼絕,爰命總兵官征夷將軍新城侯張輔等率師八十萬討之,飛度富良,深入逆境,桓桓虎旅,威名雷霆,業業凶徒,勢如拉朽,七百萬之眾須臾而盡,二千里之國次第皆平,生擒逆賊黎季犛及子黎蒼、黎澄與其家屬,並偽將相官僚徐季貔、胡杜等,撫納降附,綏輯良善,遍求陳氏子孫立之,其國之官吏、耆老人等咸稱為黎賊殺戮已盡,無可繼承,又稱:「安南本古交州,為中國郡縣,論污夷習,及茲有年,今幸泛掃欃槍,磢剷蕪穢,原復古郡縣,與民更新。」朕俯徇輿情,人其所請,置交址都指揮使司、交址等處承宣布政使司、交址等處提刑按察使司及軍民衙門,設官分理,廓清海徼之妖氛,變革遐邦之舊俗,所有合行事宜,條列於後,安南王陳氏為黎賊所弒,死於非命,宜與贈謚,慰其幽冥;其子孫宗族有為黎賊所害者,宜贈以官,有司皆具名來聞。陳氏子孫既為黎賊盡戮,宗祀廢絕,有司宜與建祠,其墳墓蕪廢,宜與修治,祠墳各給民三十戶供祭掃。安南官吏軍民人等為黎賊驅迫死亡者眾,暴露可憫,有司即為埋瘞。安南郡縣官吏皆陳氏舊人,為黎賊威脅,本非得已,詔書到日,凡在職役者悉仍其舊。然民久染夷俗,宜設官兼治,教以中國禮法。黎賊數年以來,為政若猛,毒虐其民,今悉廢除之,宣布朝廷政令,以安眾庶。安南各處關隘,有結聚人民守把營寨及逃避海島者,詔書到日,即便解散。其民罹黎賊困苦已久,有司宜善撫恤,使安生業,無致失所。其官吏軍民有為黎賊所害,或黥刺徒配,或全家流徙不得其所,及一應被害之人,詔書到日,悉放回原籍復業,所在有司即便起發,毋得停留。其有囚繫於獄者,即時放遣。安南境內凡有高年碩德,有司即加禮待。及鰥寡孤獨之人無依倚者,為立養濟院以存恤之。有懷才抱德可用之士,有司以禮敦遣至京,量才於本土敍用。安南與占城、百夷等處接界,宜各守疆境,毋致侵越,亦不許軍民人等私通外境,私自下海販鬻番貨,違者依律治罪。於戲!威武再揚,豈予心之所欲;元惡既殛,實有眾之同情。廣施一視之仁,永樂太平之治,布告中外,咸使聞知。 </poem> | <poem> Trẫm kỳ phụng hoàng đồ, khác tôn thành hiến, hoằng phu chí hóa, kỳ tứ hải chi lạc, vĩnh bảo thái hòa, tỷ vạn vật chi hàm toại, túc dạ căng nghiệp, phất cảm đãi hoàng. Ngưỡng duy Hoàng khảo Thái Tổ Cao Hoàng đế<ref>Tức [[w:Minh Thái Tổ|Minh Thái Tổ]]</ref> hỗn nhất thiên hạ, hoài nhu viễn nhân, An Nam Trần Nhật Khuê<ref>Tức [[Tác gia:Trần Dụ Tông|Trần Dụ Tông]]</ref> mộ nghĩa hướng phong, suất tiên chức cống, toại phong vi An Nam vương, thế hữu kỳ thổ. Bỉ giả, tặc thần Lê Quý Ly cập tử Thương<ref>Tức cha con [[Tác gia:Hồ Quý Ly|Hồ Quý Ly]] và [[w:Hồ Hán Thương|Hồ Hán Thương]]</ref> thí kỳ quốc chủ, tường cập hạp gia, độc thống sinh dân, oán thanh tái lộ, quỷ dịch tính danh vi Hồ Nhất Nguyên, tử vi Hồ Đê, ẩn tế kỳ thực, quỷ xưng Trần sanh, cuống ngôn Trần thị tuyệt tự, thỉnh cầu tập phong, trẫm niệm quốc nhân vô thống, thính doãn sở vân. Hạnh thành gian mưu, tứ vô kỵ đạn, tự vị thánh ưu Tam hoàng, đức cao Ngũ đế<ref>Xem [[w:Tam Hoàng Ngũ Đế|Tam hoàng Ngũ đế]]</ref>, dĩ Văn Vũ<ref>Tức [[w:Cơ Xương|Chu Văn vương]] và [[w:Chu Vũ vương|Chu Vũ vương]]</ref> vi bất túc pháp, Chu Khổng<ref>Tức [[w:Chu công Đán|Chu công]] và [[w:Khổng Tử|Khổng Tử]]</ref> vi bất túc sư, tiếm quốc hiệu viết Đại Ngu, kỷ niên Nguyên Thánh, tự xưng lưỡng cung Hoàng đế, mạo dụng triều đình lễ nghi, chiêu nạp bô đào, dương phụng chính sóc; ký du Nam Chiếu, khuy tý Quảng Tây, cứ Tư Minh phủ chi sổ châu, xâm Ninh Viễn châu chi thất trại, lỗ kỳ tử nữ, ẩu kỳ nhân dân, khi Chiêm Thành sàn nhược, đoạt kỳ thổ cương, bức dữ chương phục, yếu kỳ cống phú; luy sử hiểu dụ, hỗ ác phất thuân; An Nam vương tôn<ref>Tức [[w:Trần Thiêm Bình|Trần Thiêm Bình]]</ref> bôn thoán lai tố, xưng tặc mậu trần thành khoản, thỉnh nghênh quân chi, nãi phục binh yếu sát ư đồ, cự nhục triều sứ; trẫm khiển nhân tứ Chiêm Thành lễ vật, hựu kiếp sứ thần nhi đoạt chi. Xuẩn tư hung thụ, tích ác như sơn, tứ hải chi sở bất dung, thần nhân chi sở phẫn nộ. Hưng ngôn chí thử, hực nhiên thương hoài, thực bất đắc dĩ, thị dụng hưng sư, kỳ phạt tội dĩ điếu dân, tương hưng diệt nhi kế tuyệt, viên mệnh Tổng binh quan Chinh Di tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ đẳng suất sư bát thập vạn thảo chi, phi độ Phú Lương, thâm nhập nghịch cảnh, hoàn hoàn hổ lữ, uy danh lôi đình, nghiệp nghiệp hung đồ, thế như lạp hủ, thất bách vạn chi chúng tu du nhi tận, nhị thiên lý chi quốc thứ đệ giai bình, sinh cầm nghịch tặc Lê Quý Ly cập tử Lê Thương, Lê Trừng<ref>Tức [[Tác gia:Hồ Nguyên Trừng|Hồ Nguyên Trừng]]</ref> dữ kỳ gia thuộc, tịnh ngụy tướng tương quan liêu Từ Quý Tỳ<ref>Tức Hồ Quý Tỳ, em ruột Hồ Quý Ly</ref>, Hồ Đỗ đẳng, phủ nạp hàng phụ, tuy tập lương thiện, biến cầu Trần thị tử tôn lập chi, kỳ quốc chi quan lại, kỳ lão nhân đẳng hàm xưng vi Lê tặc sát lục dĩ tận, vô khả kế thừa, hựu xưng: "An Nam bản cổ Giao Châu, vi Trung Quốc quận huyện, luận ô di tập, cập tư hữu niên, kim hạnh phiếm tảo sàm thương, sưởng sản vu uế, nguyên phục cổ quận huyện, dữ dân canh tân". Trẫm phủ tuẫn dư tình, nhân kỳ sở thỉnh, trí Giao Chỉ Đô chỉ huy sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Thừa tuyên Bố chính sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Đề hình Án sát sứ ti, cập quân dân nha môn, thiết quan phân lý, khuếch thanh hải kiếu chi yêu phân, biến cách hà bang chi cựu tục, sở hữu hợp hành sự nghi, điều liệt ư hậu, An Nam vương Trần thị vi Lê tặc sở thí, tử ư phi mệnh, nghi dữ tặng thụy, úy kỳ u minh; kỳ tử tôn tông tộc hữu vi Lê tặc sở hại giả, nghi tặng dĩ quan, hữu ti giai cụ danh lai văn. Trần thị tử tôn ký vi Lê tặc tận lục, tông tự phế tuyệt, hữu ti nghi dữ kiến từ, kỳ phần mộ vu phế, nghi dữ tu trì, từ phần các cấp dân tam thập hộ cung tế tảo. An Nam quan lại quân dân nhân đẳng vi Lê tặc khu bách tử vong giả chúng, bạo lộ khả mẫn, hữu ti tức vi mai ế. An Nam quận huyện quan lại giai Trần thị cựu nhân, vi Lê tặc uy hiếp, bản phi đắc dĩ, chiếu thư đáo nhật, phàm tại chức dịch giả tất nhưng kỳ cựu. Nhiên dân cửu nhiễm di tục, nghi thiết quan kiêm trị, giáo dĩ Trung Quốc lễ pháp. Lê tặc sổ niên dĩ lai, vi chính nhược mãnh, độc ngược kỳ dân, kim tất phế trừ chi, tuyên bố triều đình chính lệnh, dĩ an chúng thứ. An Nam các xứ quan ải, hữu kết tụ nhân dân thủ bả doanh trại cập đào tị hải đảo giả, chiếu thư đáo nhật, tức tiện giải tán. Kỳ dân ly Lê tặc khốn khổ dĩ cửu, hữu ti nghi thiện phủ tuất, sử an sinh nghiệp, vô trí thất sở. Kỳ quan lại quân dân hữu vi Lê tặc sở hại, hoặc kình thứ đồ phối, hoặc toàn gia lưu tỷ bất đắc kỳ sở, cập nhất ứng bị hại chi nhân, chiếu thư đáo nhật, tất phóng hồi nguyên tịch phục nghiệp, sở tại hữu ti tức tiện khởi phát, vô đắc đình lưu. Kỳ hữu tù hệ ư ngục giả, tức thì phóng khiển. An Nam cảnh nội phàm hữu cao niên thạc đức, hữu ti tức gia lễ đãi. Cập quan quả cô độc chi nhân vô y ỷ giả, vi lập Dưỡng tế viện dĩ tồn tuất chi. Hữu hoài tài bão đức khả dụng chi sĩ, hữu ti dĩ lễ đôn khiển chí kinh, lượng tài ư bản thổ tự dụng. An Nam dữ Chiêm Thành, bách di đẳng xứ tiếp giới, nghi các thủ cương cảnh, vô trí xâm việt, diệc bất hứa quân dân nhân đẳng tư thông ngoại cảnh, tư tự hạ hải phiến dục phiên hóa, vi giả y luật trị tội. Ô hô! Uy vũ tái dương, khởi dư tâm chi sở dục; nguyên ác ký cức, thực hữu chúng chi đồng tình. Quảng thi nhất thị chi nhân, Vĩnh Lạc<ref>Niên hiệu của [[Tác gia:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]]</ref> thái bình chi trị, bố cáo trung ngoại, hàm sử văn tri. </poem> |} ==Dịch nghĩa== Trẫm kính cẩn tiếp nhận việc trị vì thiên hạ, một lòng noi theo khuôn phép, rộng truyền ảnh hưởng của bậc Thánh hiền. Trẫm mong muốn muôn dân trong bốn bể đều được an vui, thịnh vượng, mãi hưởng thái bình. Như thế, từ sớm đến tối, ai nấy đều chuyên cần làm việc, không ai dám lười nhác. Kính ghi rằng, tiên hoàng – Cao Hoàng Đế Thái Tổ (Minh Thái Tổ) – đã thống nhất thiên hạ, yêu thương cả những dân tộc nơi xa. Trần Nhật Khuể 日煃 nước An Nam kính trọng chính nghĩa, hướng về văn hóa của triều đình. Ông là người đầu tiên đến triều cống, vì thế được phong làm quốc vương nước An Nam, con cháu đời đời nối nghiệp giữ lấy lãnh thổ. Gần đây, tên gian thần Lê Quý Ly cùng con là Thương đã sát hại quốc vương, tàn sát cả hoàng tộc. Chúng đối xử tàn bạo, hiểm ác với dân chúng, khiến oán hận và bất bình lan tràn khắp phố phường. Lê Quý Ly tự tiện đổi tên thành Hồ Nhất Nguyên, con hắn là Hồ Đê, rồi che giấu sự thật, giả xưng là con cháu họ Trần. Hắn gian trá tuyên bố dòng họ Trần đã tuyệt tự, rồi xin được kế thừa vương vị. Trẫm lo rằng dân chúng sẽ không có người cai trị, nên tạm thuận theo lời hắn. Nhưng hắn lại vui mừng trong gian trá, âm mưu phản nghịch, hành động ngông cuồng không kiêng dè. Hắn tự xưng vượt cả Tam Hoàng, đức hạnh hơn Ngũ Đế, noi gương Văn Vương, Vũ Vương mà còn tự cho là học vấn hơn Chu Công, Khổng Tử. Hắn trái phép lập quốc hiệu là Đại Ngu, niên hiệu là Nguyên Thánh, tự xưng là Lưỡng Cung Hoàng Đế, mô phỏng nghi lễ triều đình. Hắn dung nạp kẻ trốn tránh, giả vờ tôn kính lịch triều đình nhưng lại khát vọng hướng về Nam Chiếu, do thám Quảng Tây, chờ thời cơ. Hắn chiếm cứ nhiều châu thuộc phủ Tư Minh, đoạt bảy đồn trại ở Ninh Viễn, bắt con trai con gái, xua đuổi dân lành. Thừa lúc Chiêm Thành suy yếu, hắn chiếm đất, ép vua Chiêm nhận ấn tín và áo mũ, bắt triều cống và nộp thuế. Triều đình đã nhiều lần sai sứ đến khuyên răn rõ ràng, nhưng hắn vẫn không hối cải, tiếp tục làm điều ác. Một người cháu của quốc vương nước An Nam, từng trốn chạy và ẩn náu, sau đó đến triều đình để trình bày nỗi oan. Tên giặc Ly giả vờ trung thành, xin được phụng sự người cháu ấy như chủ. Nhưng quân của hắn đã phục kích trên đường, sát hại người cháu kia. Hắn còn cản trở và nhục mạ sứ giả của triều đình. Khi trẫm sai người mang lễ vật đến ban cho Chiêm Thành, hắn cũng cướp đoạt sứ giả và chiếm lấy lễ vật. Hắn ngu muội chọn con đường tàn bạo, chất chồng ác nghiệp như núi. Việc ấy không thể dung thứ trong bốn bể, khiến cả thần linh lẫn con người đều phẫn nộ. Trẫm vốn chỉ dùng lời lẽ để khuyên răn, nhưng hắn vẫn tiếp tục gây hại và làm điều ác. Vì thế, không còn cách nào khác ngoài việc khởi binh để trừng phạt kẻ nghịch, an ủi dân chúng, và khôi phục dòng dõi đã bị đoạn tuyệt. Trương Phụ, tước Tân Thành hầu, được sắc phong làm Chinh Di Tướng Quân kiêm Tổng chỉ huy khu vực, cùng các tướng lĩnh khác dẫn đại quân tám trăm nghìn binh sĩ tiến đánh kẻ phản nghịch. Đoàn quân vượt nhanh sông Phú Lương, tiến sâu vào đất giặc. Thế quân như sấm sét, khiến bọn phản loạn hoảng loạn, tan rã như gỗ mục. Bảy triệu quân giặc bị tiêu diệt trong chớp mắt. Sau đó, vùng đất rộng hai nghìn dặm được hoàn toàn bình định. Tên giặc phản Lê Quý Ly, cùng các con là Lê Thương, Lê Trừng và toàn bộ gia quyến bị bắt sống. Các tướng giả, quan lại ngụy như Lê Quý Tỳ, Hồ Đỗ và những kẻ đồng đảng cũng đều bị bắt giữ. Những người quy thuận và trở lại thần phục đều được chăm sóc chu đáo, người hiền đức được an ủi và khuyến khích. Triều đình đã tìm kiếm khắp nơi hậu duệ nam của dòng họ Trần để lập làm vua. Nhưng các quan lại và bô lão trong nước đều tâu rằng bọn giặc họ Lê (Quý Ly) đã giết sạch nam nhân trong hoàng tộc, không còn ai có thể kế vị ngai vàng. Họ cũng nói rằng An Nam xưa vốn là Giao Châu, một đơn vị hành chính của Trung Quốc, nhưng về sau dân chúng rơi vào lối sống man di, kéo dài nhiều năm. Nay, họ vui mừng vì tên phản loạn đã bị tiêu diệt, cỏ dại đã được nhổ sạch, và mong muốn khôi phục lại các châu huyện xưa, chấn hưng dân chúng. Trẫm thuận theo lòng dân, chuẩn y lời thỉnh cầu ấy. Vì thế, Trẫm thiết lập Ủy ban Quân sự khu vực Giao Chỉ, cùng với cơ quan hành chính tỉnh Giao Chỉ và các nơi khác, và cơ quan giám sát tỉnh Giao Chỉ và các nơi khác, đồng thời đặt các nha môn quân sự và dân sự, bổ nhiệm quan lại để cai trị. Những ảnh hưởng tà ác từng lan tràn nơi biên viễn ven biển sẽ bị loại bỏ, và phong tục cũ của vùng đất xa xôi này sẽ được cải biến. Các biện pháp thích hợp được liệt kê dưới đây. Các vua nước An Nam thuộc dòng họ Trần đã bị bọn giặc họ Lý sát hại. Cái chết của họ trái với mệnh trời, nên cần được truy phong để an ủi linh hồn nơi chín suối. Những người con, cháu và thân tộc của họ bị giết bởi bọn giặc cũng đều được truy phong tước hiệu. Quan chức địa phương phải ghi chép đầy đủ danh tính và trình báo. Vì con cháu họ Trần đều bị giết, việc tế tự tổ tiên đã bị gián đoạn. Quan lại địa phương phải dựng miếu thờ, tu sửa phần mộ, nhổ sạch cỏ hoang. Phân bổ ba mươi hộ dân để chăm sóc miếu, và ba mươi hộ khác để trông nom phần mộ. Họ sẽ đảm nhiệm việc cúng tế và tảo mộ theo nghi lễ. Vô số quan lại, binh sĩ và dân chúng đã bị bọn giặc họ Lê bức hại đến chết. Nỗi thống khổ của họ thật đáng thương xót. Quan chức địa phương phải lo liệu việc mai táng và cúng tế cho họ. Tất cả các quan lại tại các châu huyện của An Nam vốn trung thành với triều Trần, nhưng khi bị bọn giặc họ Lê uy hiếp, đành phải tạm thời thuận theo. Nay khi chiếu chỉ triều đình được ban xuống, những người từng giữ chức vụ sẽ được phục hồi nguyên chức. Tuy nhiên, dân chúng lâu nay đã bị ảnh hưởng bởi phong tục man di, nên cần bổ nhiệm quan lại để vừa cai trị, vừa giáo hóa họ theo lễ nghĩa và pháp luật Trung Hoa. Trong nhiều năm, bọn giặc họ Lê cai trị hà khắc, tàn ác với dân chúng. Nay chúng đã bị tiêu diệt, và mệnh lệnh của triều đình đang được ban bố để đem lại thái bình cho muôn dân. Khi chiếu chỉ triều đình được ban xuống, tất cả dân chúng ở khắp nơi trong nước An Nam — những người tụ họp nơi ải, canh giữ đồn trại, hoặc lánh nạn ra các đảo ngoài biển — đều phải giải tán. Dân chúng đã chịu nhiều đau khổ dưới ách giặc họ Lê, gian nan kéo dài. Quan lại phải thể hiện lòng nhân hậu, thương xót, giúp dân ổn định nghề nghiệp, không để ai không có nơi nương tựa. Những quan lại, binh sĩ và dân thường từng bị giặc họ Lê hãm hại, bị xăm mình, bị đày ải, những gia đình ly tán không nơi cư trú, cùng tất cả những ai bị tổn hại, khi chiếu chỉ đến, đều phải được trở về quê quán, phục hồi nghề nghiệp cũ. Quan lại địa phương nơi họ đang cư trú phải tạo điều kiện cho họ hồi hương, không được giữ lại. Những người đang bị giam giữ phải được lập tức thả ra. Trong cõi An Nam, người già cả, có đức, có danh vọng phải được chính quyền kính trọng. Một nha môn cứu tế sẽ được lập để chăm lo cho những người góa bụa, mồ côi, không nơi nương tựa. Những người có tài, có đức, xứng đáng được trọng dụng, phải được quan lại địa phương đưa về kinh thành với nghi lễ trang trọng. Tài năng của họ sẽ được khảo xét và bổ nhiệm tại địa phương. An Nam giáp giới với Chiêm Thành, Bạch Di và các nơi khác. Tất cả đều phải giữ vững biên cương, không được vượt qua. Quân dân không được tự ý vượt biên, giao dịch riêng, hay vượt biển buôn bán hàng hóa phiên bang. Ai vi phạm sẽ bị xử theo pháp luật. Thật vậy, việc thể hiện uy quyền không phải là điều lòng Trẫm mong muốn. Nhưng kẻ đại nghịch đã bị tiêu diệt, điều ấy được lòng dân. Trẫm sẽ rộng ban ân đức, coi muôn dân như nhau, thiết lập nền trị bình dưới niên hiệu Vĩnh Lạc. Việc này sẽ được tuyên bố trong nước và ra ngoài, để thiên hạ đều hay. {{chú thích cuối trang}} ---- Xem thêm bản tiếng Anh: * Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/reign/yong-le/year-5-month-6-day-1, accessed 19 June 2025 {{PD-old}} [[Thể loại:Văn học Trung Quốc]] [[Thể loại:Chiếu]] mkp4bggjurcsufa3hc9nt1xasynm9j8 195799 195797 2025-06-19T07:21:32Z Mrfly911 2215 /* Dịch nghĩa */ 195799 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 平安南詔 - Bình An Nam chiếu | tác giả = Minh Thành Tổ | dịch giả = | năm = 1407 | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Ngày 5 tháng 7 năm 1407 (Âm lịch: ngày mồng 1 tháng 6 âm lịch năm Vĩnh Lạc thứ 5, tức ngày Quý Mùi), [[w:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]] (Chu Lệ) sau khi xuất binh tiến đánh nước An Nam do [[w:nhà Hồ|nhà Hồ]] đang nắm quyền, ban chiếu bố cáo thiên hạ. }} ---- {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! &nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 朕祇奉皇圖,恪尊成憲,弘敷至化,期四海之樂,永保太和,俾萬物之咸遂,夙夜兢業,弗敢怠遑。仰惟皇考太祖高皇帝混一天下,懷柔遠人,安南陳日煃慕義向風,率先職貢,遂封為安南王,世有其土。比者,賊臣黎季犛及子蒼弒其國主,戕及闔家,毒痛生民,怨聲載路,詭易姓名為胡一元,子為胡𡗨,隱蔽其實,詭稱陳甥,誑言陳氏絕嗣,請求襲封,朕念國人無統,聽允所云。幸成奸謀,肆無忌憚,自謂聖優三皇,德高五帝,以文武為不足法,周孔為不足師,僭國號曰大虞,紀年元聖,自稱兩宮皇帝,冒用朝廷禮儀,招納逋逃,陽奉正朔;覬覦南詔,窺伺廣西,據思明府之數州,侵寧遠州之七寨,虜其子女,毆其人民,欺占城孱弱,奪其土疆,逼與章服,要其貢賦;累使曉諭,怙惡弗悛;安南王孫奔竄來訴,稱賊謬陳誠款,請迎君之,乃伏兵要殺於途,拒辱朝使;朕遣人賜占城禮物,又劫使臣而奪之。蠢茲凶竪,積惡如山,四海之所不容,神人之所憤怒。興言至此,衋然傷懷,實不得已,是用興師,期伐罪以吊民,將興滅而繼絕,爰命總兵官征夷將軍新城侯張輔等率師八十萬討之,飛度富良,深入逆境,桓桓虎旅,威名雷霆,業業凶徒,勢如拉朽,七百萬之眾須臾而盡,二千里之國次第皆平,生擒逆賊黎季犛及子黎蒼、黎澄與其家屬,並偽將相官僚徐季貔、胡杜等,撫納降附,綏輯良善,遍求陳氏子孫立之,其國之官吏、耆老人等咸稱為黎賊殺戮已盡,無可繼承,又稱:「安南本古交州,為中國郡縣,論污夷習,及茲有年,今幸泛掃欃槍,磢剷蕪穢,原復古郡縣,與民更新。」朕俯徇輿情,人其所請,置交址都指揮使司、交址等處承宣布政使司、交址等處提刑按察使司及軍民衙門,設官分理,廓清海徼之妖氛,變革遐邦之舊俗,所有合行事宜,條列於後,安南王陳氏為黎賊所弒,死於非命,宜與贈謚,慰其幽冥;其子孫宗族有為黎賊所害者,宜贈以官,有司皆具名來聞。陳氏子孫既為黎賊盡戮,宗祀廢絕,有司宜與建祠,其墳墓蕪廢,宜與修治,祠墳各給民三十戶供祭掃。安南官吏軍民人等為黎賊驅迫死亡者眾,暴露可憫,有司即為埋瘞。安南郡縣官吏皆陳氏舊人,為黎賊威脅,本非得已,詔書到日,凡在職役者悉仍其舊。然民久染夷俗,宜設官兼治,教以中國禮法。黎賊數年以來,為政若猛,毒虐其民,今悉廢除之,宣布朝廷政令,以安眾庶。安南各處關隘,有結聚人民守把營寨及逃避海島者,詔書到日,即便解散。其民罹黎賊困苦已久,有司宜善撫恤,使安生業,無致失所。其官吏軍民有為黎賊所害,或黥刺徒配,或全家流徙不得其所,及一應被害之人,詔書到日,悉放回原籍復業,所在有司即便起發,毋得停留。其有囚繫於獄者,即時放遣。安南境內凡有高年碩德,有司即加禮待。及鰥寡孤獨之人無依倚者,為立養濟院以存恤之。有懷才抱德可用之士,有司以禮敦遣至京,量才於本土敍用。安南與占城、百夷等處接界,宜各守疆境,毋致侵越,亦不許軍民人等私通外境,私自下海販鬻番貨,違者依律治罪。於戲!威武再揚,豈予心之所欲;元惡既殛,實有眾之同情。廣施一視之仁,永樂太平之治,布告中外,咸使聞知。 </poem> | <poem> Trẫm kỳ phụng hoàng đồ, khác tôn thành hiến, hoằng phu chí hóa, kỳ tứ hải chi lạc, vĩnh bảo thái hòa, tỷ vạn vật chi hàm toại, túc dạ căng nghiệp, phất cảm đãi hoàng. Ngưỡng duy Hoàng khảo Thái Tổ Cao Hoàng đế<ref>Tức [[w:Minh Thái Tổ|Minh Thái Tổ]]</ref> hỗn nhất thiên hạ, hoài nhu viễn nhân, An Nam Trần Nhật Khuê<ref>Tức [[Tác gia:Trần Dụ Tông|Trần Dụ Tông]]</ref> mộ nghĩa hướng phong, suất tiên chức cống, toại phong vi An Nam vương, thế hữu kỳ thổ. Bỉ giả, tặc thần Lê Quý Ly cập tử Thương<ref>Tức cha con [[Tác gia:Hồ Quý Ly|Hồ Quý Ly]] và [[w:Hồ Hán Thương|Hồ Hán Thương]]</ref> thí kỳ quốc chủ, tường cập hạp gia, độc thống sinh dân, oán thanh tái lộ, quỷ dịch tính danh vi Hồ Nhất Nguyên, tử vi Hồ Đê, ẩn tế kỳ thực, quỷ xưng Trần sanh, cuống ngôn Trần thị tuyệt tự, thỉnh cầu tập phong, trẫm niệm quốc nhân vô thống, thính doãn sở vân. Hạnh thành gian mưu, tứ vô kỵ đạn, tự vị thánh ưu Tam hoàng, đức cao Ngũ đế<ref>Xem [[w:Tam Hoàng Ngũ Đế|Tam hoàng Ngũ đế]]</ref>, dĩ Văn Vũ<ref>Tức [[w:Cơ Xương|Chu Văn vương]] và [[w:Chu Vũ vương|Chu Vũ vương]]</ref> vi bất túc pháp, Chu Khổng<ref>Tức [[w:Chu công Đán|Chu công]] và [[w:Khổng Tử|Khổng Tử]]</ref> vi bất túc sư, tiếm quốc hiệu viết Đại Ngu, kỷ niên Nguyên Thánh, tự xưng lưỡng cung Hoàng đế, mạo dụng triều đình lễ nghi, chiêu nạp bô đào, dương phụng chính sóc; ký du Nam Chiếu, khuy tý Quảng Tây, cứ Tư Minh phủ chi sổ châu, xâm Ninh Viễn châu chi thất trại, lỗ kỳ tử nữ, ẩu kỳ nhân dân, khi Chiêm Thành sàn nhược, đoạt kỳ thổ cương, bức dữ chương phục, yếu kỳ cống phú; luy sử hiểu dụ, hỗ ác phất thuân; An Nam vương tôn<ref>Tức [[w:Trần Thiêm Bình|Trần Thiêm Bình]]</ref> bôn thoán lai tố, xưng tặc mậu trần thành khoản, thỉnh nghênh quân chi, nãi phục binh yếu sát ư đồ, cự nhục triều sứ; trẫm khiển nhân tứ Chiêm Thành lễ vật, hựu kiếp sứ thần nhi đoạt chi. Xuẩn tư hung thụ, tích ác như sơn, tứ hải chi sở bất dung, thần nhân chi sở phẫn nộ. Hưng ngôn chí thử, hực nhiên thương hoài, thực bất đắc dĩ, thị dụng hưng sư, kỳ phạt tội dĩ điếu dân, tương hưng diệt nhi kế tuyệt, viên mệnh Tổng binh quan Chinh Di tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ đẳng suất sư bát thập vạn thảo chi, phi độ Phú Lương, thâm nhập nghịch cảnh, hoàn hoàn hổ lữ, uy danh lôi đình, nghiệp nghiệp hung đồ, thế như lạp hủ, thất bách vạn chi chúng tu du nhi tận, nhị thiên lý chi quốc thứ đệ giai bình, sinh cầm nghịch tặc Lê Quý Ly cập tử Lê Thương, Lê Trừng<ref>Tức [[Tác gia:Hồ Nguyên Trừng|Hồ Nguyên Trừng]]</ref> dữ kỳ gia thuộc, tịnh ngụy tướng tương quan liêu Từ Quý Tỳ<ref>Tức Hồ Quý Tỳ, em ruột Hồ Quý Ly</ref>, Hồ Đỗ đẳng, phủ nạp hàng phụ, tuy tập lương thiện, biến cầu Trần thị tử tôn lập chi, kỳ quốc chi quan lại, kỳ lão nhân đẳng hàm xưng vi Lê tặc sát lục dĩ tận, vô khả kế thừa, hựu xưng: "An Nam bản cổ Giao Châu, vi Trung Quốc quận huyện, luận ô di tập, cập tư hữu niên, kim hạnh phiếm tảo sàm thương, sưởng sản vu uế, nguyên phục cổ quận huyện, dữ dân canh tân". Trẫm phủ tuẫn dư tình, nhân kỳ sở thỉnh, trí Giao Chỉ Đô chỉ huy sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Thừa tuyên Bố chính sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Đề hình Án sát sứ ti, cập quân dân nha môn, thiết quan phân lý, khuếch thanh hải kiếu chi yêu phân, biến cách hà bang chi cựu tục, sở hữu hợp hành sự nghi, điều liệt ư hậu, An Nam vương Trần thị vi Lê tặc sở thí, tử ư phi mệnh, nghi dữ tặng thụy, úy kỳ u minh; kỳ tử tôn tông tộc hữu vi Lê tặc sở hại giả, nghi tặng dĩ quan, hữu ti giai cụ danh lai văn. Trần thị tử tôn ký vi Lê tặc tận lục, tông tự phế tuyệt, hữu ti nghi dữ kiến từ, kỳ phần mộ vu phế, nghi dữ tu trì, từ phần các cấp dân tam thập hộ cung tế tảo. An Nam quan lại quân dân nhân đẳng vi Lê tặc khu bách tử vong giả chúng, bạo lộ khả mẫn, hữu ti tức vi mai ế. An Nam quận huyện quan lại giai Trần thị cựu nhân, vi Lê tặc uy hiếp, bản phi đắc dĩ, chiếu thư đáo nhật, phàm tại chức dịch giả tất nhưng kỳ cựu. Nhiên dân cửu nhiễm di tục, nghi thiết quan kiêm trị, giáo dĩ Trung Quốc lễ pháp. Lê tặc sổ niên dĩ lai, vi chính nhược mãnh, độc ngược kỳ dân, kim tất phế trừ chi, tuyên bố triều đình chính lệnh, dĩ an chúng thứ. An Nam các xứ quan ải, hữu kết tụ nhân dân thủ bả doanh trại cập đào tị hải đảo giả, chiếu thư đáo nhật, tức tiện giải tán. Kỳ dân ly Lê tặc khốn khổ dĩ cửu, hữu ti nghi thiện phủ tuất, sử an sinh nghiệp, vô trí thất sở. Kỳ quan lại quân dân hữu vi Lê tặc sở hại, hoặc kình thứ đồ phối, hoặc toàn gia lưu tỷ bất đắc kỳ sở, cập nhất ứng bị hại chi nhân, chiếu thư đáo nhật, tất phóng hồi nguyên tịch phục nghiệp, sở tại hữu ti tức tiện khởi phát, vô đắc đình lưu. Kỳ hữu tù hệ ư ngục giả, tức thì phóng khiển. An Nam cảnh nội phàm hữu cao niên thạc đức, hữu ti tức gia lễ đãi. Cập quan quả cô độc chi nhân vô y ỷ giả, vi lập Dưỡng tế viện dĩ tồn tuất chi. Hữu hoài tài bão đức khả dụng chi sĩ, hữu ti dĩ lễ đôn khiển chí kinh, lượng tài ư bản thổ tự dụng. An Nam dữ Chiêm Thành, bách di đẳng xứ tiếp giới, nghi các thủ cương cảnh, vô trí xâm việt, diệc bất hứa quân dân nhân đẳng tư thông ngoại cảnh, tư tự hạ hải phiến dục phiên hóa, vi giả y luật trị tội. Ô hô! Uy vũ tái dương, khởi dư tâm chi sở dục; nguyên ác ký cức, thực hữu chúng chi đồng tình. Quảng thi nhất thị chi nhân, Vĩnh Lạc<ref>Niên hiệu của [[Tác gia:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]]</ref> thái bình chi trị, bố cáo trung ngoại, hàm sử văn tri. </poem> |} ==Dịch nghĩa== Trẫm kính cẩn tiếp nhận việc trị vì thiên hạ, một lòng noi theo khuôn phép, rộng truyền ảnh hưởng của bậc Thánh hiền. Trẫm mong muốn muôn dân trong bốn bể đều được an vui, thịnh vượng, mãi hưởng thái bình. Như thế, từ sớm đến tối, ai nấy đều chuyên cần làm việc, không ai dám lười nhác. Kính ghi rằng, tiên hoàng – Cao Hoàng Đế Thái Tổ (Minh Thái Tổ) – đã thống nhất thiên hạ, yêu thương cả những dân tộc nơi xa. Trần Nhật Khuể 日煃 nước An Nam kính trọng chính nghĩa, hướng về văn hóa của triều đình. Ông là người đầu tiên đến triều cống, vì thế được phong làm quốc vương nước An Nam, con cháu đời đời nối nghiệp giữ lấy lãnh thổ. Gần đây, tên gian thần Lê Quý Ly cùng con là Thương đã sát hại quốc vương, tàn sát cả hoàng tộc. Chúng đối xử tàn bạo, hiểm ác với dân chúng, khiến oán hận và bất bình lan tràn khắp phố phường. Lê Quý Ly tự tiện đổi tên thành Hồ Nhất Nguyên, con hắn là Hồ Đê, rồi che giấu sự thật, giả xưng là con cháu họ Trần. Hắn gian trá tuyên bố dòng họ Trần đã tuyệt tự, rồi xin được kế thừa vương vị. Trẫm lo rằng dân chúng sẽ không có người cai trị, nên tạm thuận theo lời hắn. Nhưng hắn lại vui mừng trong gian trá, âm mưu phản nghịch, hành động ngông cuồng không kiêng dè. Hắn tự xưng vượt cả Tam Hoàng, đức hạnh hơn Ngũ Đế, noi gương Văn Vương, Vũ Vương mà còn tự cho là học vấn hơn Chu Công, Khổng Tử. Hắn trái phép lập quốc hiệu là Đại Ngu, niên hiệu là Nguyên Thánh, tự xưng là Lưỡng Cung Hoàng Đế, mô phỏng nghi lễ triều đình. Hắn dung nạp kẻ trốn tránh, giả vờ tôn kính lịch triều đình nhưng lại khát vọng hướng về Nam Chiếu, do thám Quảng Tây, chờ thời cơ. Hắn chiếm cứ nhiều châu thuộc phủ Tư Minh, đoạt bảy đồn trại ở Ninh Viễn, bắt con trai con gái, xua đuổi dân lành. Thừa lúc Chiêm Thành suy yếu, hắn chiếm đất, ép vua Chiêm nhận ấn tín và áo mũ, bắt triều cống và nộp thuế. Triều đình đã nhiều lần sai sứ đến khuyên răn rõ ràng, nhưng hắn vẫn không hối cải, tiếp tục làm điều ác. Một người cháu của quốc vương nước An Nam, từng trốn chạy và ẩn náu, sau đó đến triều đình để trình bày nỗi oan. Tên giặc Ly giả vờ trung thành, xin được phụng sự người cháu ấy như chủ. Nhưng quân của hắn đã phục kích trên đường, sát hại người cháu kia. Hắn còn cản trở và nhục mạ sứ giả của triều đình. Khi trẫm sai người mang lễ vật đến ban cho Chiêm Thành, hắn cũng cướp đoạt sứ giả và chiếm lấy lễ vật. Hắn ngu muội chọn con đường tàn bạo, chất chồng ác nghiệp như núi. Việc ấy không thể dung thứ trong bốn bể, khiến cả thần linh lẫn con người đều phẫn nộ. Trẫm vốn chỉ dùng lời lẽ để khuyên răn, nhưng hắn vẫn tiếp tục gây hại và làm điều ác. Vì thế, không còn cách nào khác ngoài việc khởi binh để trừng phạt kẻ nghịch, an ủi dân chúng, và khôi phục dòng dõi đã bị đoạn tuyệt. Trương Phụ, tước Tân Thành hầu, được sắc phong làm Chinh Di Tướng Quân kiêm Tổng chỉ huy khu vực, cùng các tướng lĩnh khác dẫn đại quân tám trăm nghìn binh sĩ tiến đánh kẻ phản nghịch. Đoàn quân vượt nhanh sông Phú Lương, tiến sâu vào đất giặc. Thế quân như sấm sét, khiến bọn phản loạn hoảng loạn, tan rã như gỗ mục. Bảy triệu quân giặc bị tiêu diệt trong chớp mắt. Sau đó, vùng đất rộng hai nghìn dặm được hoàn toàn bình định. Tên giặc phản Lê Quý Ly, cùng các con là Lê Thương, Lê Trừng và toàn bộ gia quyến bị bắt sống. Các tướng giả, quan lại ngụy như Lê Quý Tỳ, Hồ Đỗ và những kẻ đồng đảng cũng đều bị bắt giữ. Những người quy thuận và trở lại thần phục đều được chăm sóc chu đáo, người hiền đức được an ủi và khuyến khích. Triều đình đã tìm kiếm khắp nơi hậu duệ nam của dòng họ Trần để lập làm vua. Nhưng các quan lại và bô lão trong nước đều tâu rằng bọn giặc họ Lê (Quý Ly) đã giết sạch nam nhân trong hoàng tộc, không còn ai có thể kế vị ngai vàng. Họ cũng nói rằng An Nam xưa vốn là Giao Châu, một đơn vị hành chính của Trung Quốc, nhưng về sau dân chúng rơi vào lối sống man di, kéo dài nhiều năm. Nay, họ vui mừng vì tên phản loạn đã bị tiêu diệt, cỏ dại đã được nhổ sạch, và mong muốn khôi phục lại các châu huyện xưa, chấn hưng dân chúng. Trẫm thuận theo lòng dân, chuẩn y lời thỉnh cầu ấy. Vì thế, Trẫm thiết lập Ủy ban Quân sự khu vực Giao Chỉ, cùng với cơ quan hành chính tỉnh Giao Chỉ và các nơi khác, và cơ quan giám sát tỉnh Giao Chỉ và các nơi khác, đồng thời đặt các nha môn quân sự và dân sự, bổ nhiệm quan lại để cai trị. Những ảnh hưởng tà ác từng lan tràn nơi biên viễn ven biển sẽ bị loại bỏ, và phong tục cũ của vùng đất xa xôi này sẽ được cải biến. Các biện pháp thích hợp được liệt kê dưới đây. Các vua nước An Nam thuộc dòng họ Trần đã bị bọn giặc họ Lý sát hại. Cái chết của họ trái với mệnh trời, nên cần được truy phong để an ủi linh hồn nơi chín suối. Những người con, cháu và thân tộc của họ bị giết bởi bọn giặc cũng đều được truy phong tước hiệu. Quan chức địa phương phải ghi chép đầy đủ danh tính và trình báo. Vì con cháu họ Trần đều bị giết, việc tế tự tổ tiên đã bị gián đoạn. Quan lại địa phương phải dựng miếu thờ, tu sửa phần mộ, nhổ sạch cỏ hoang. Phân bổ ba mươi hộ dân để chăm sóc miếu, và ba mươi hộ khác để trông nom phần mộ. Họ sẽ đảm nhiệm việc cúng tế và tảo mộ theo nghi lễ. Vô số quan lại, binh sĩ và dân chúng đã bị bọn giặc họ Lê bức hại đến chết. Nỗi thống khổ của họ thật đáng thương xót. Quan chức địa phương phải lo liệu việc mai táng và cúng tế cho họ. Tất cả các quan lại tại các châu huyện của An Nam vốn trung thành với triều Trần, nhưng khi bị bọn giặc họ Lê uy hiếp, đành phải tạm thời thuận theo. Nay khi chiếu chỉ triều đình được ban xuống, những người từng giữ chức vụ sẽ được phục hồi nguyên chức. Tuy nhiên, dân chúng lâu nay đã bị ảnh hưởng bởi phong tục man di, nên cần bổ nhiệm quan lại để vừa cai trị, vừa giáo hóa họ theo lễ nghĩa và pháp luật Trung Hoa. Trong nhiều năm, bọn giặc họ Lê cai trị hà khắc, tàn ác với dân chúng. Nay chúng đã bị tiêu diệt, và mệnh lệnh của triều đình đang được ban bố để đem lại thái bình cho muôn dân. Khi chiếu chỉ triều đình được ban xuống, tất cả dân chúng ở khắp nơi trong nước An Nam — những người tụ họp nơi ải, canh giữ đồn trại, hoặc lánh nạn ra các đảo ngoài biển — đều phải giải tán. Dân chúng đã chịu nhiều đau khổ dưới ách giặc họ Lê, gian nan kéo dài. Quan lại phải thể hiện lòng nhân hậu, thương xót, giúp dân ổn định nghề nghiệp, không để ai không có nơi nương tựa. Những quan lại, binh sĩ và dân thường từng bị giặc họ Lê hãm hại, bị xăm mình, bị đày ải, những gia đình ly tán không nơi cư trú, cùng tất cả những ai bị tổn hại, khi chiếu chỉ đến, đều phải được trở về quê quán, phục hồi nghề nghiệp cũ. Quan lại địa phương nơi họ đang cư trú phải tạo điều kiện cho họ hồi hương, không được giữ lại. Những người đang bị giam giữ phải được lập tức thả ra. Trong cõi An Nam, người già cả, có đức, có danh vọng phải được chính quyền kính trọng. Một nha môn cứu tế sẽ được lập để chăm lo cho những người góa bụa, mồ côi, không nơi nương tựa. Những người có tài, có đức, xứng đáng được trọng dụng, phải được quan lại địa phương đưa về kinh thành với nghi lễ trang trọng. Tài năng của họ sẽ được khảo xét và bổ nhiệm tại địa phương. An Nam giáp giới với Chiêm Thành, Bạch Di và các nơi khác. Tất cả đều phải giữ vững biên cương, không được vượt qua. Quân dân không được tự ý vượt biên, giao dịch riêng, hay vượt biển buôn bán hàng hóa phiên bang. Ai vi phạm sẽ bị xử theo pháp luật. Thật vậy, việc thể hiện uy quyền không phải là điều lòng Trẫm mong muốn. Nhưng kẻ đại nghịch đã bị tiêu diệt, điều ấy được lòng dân. Trẫm sẽ rộng ban ân đức, coi muôn dân như nhau, thiết lập nền trị bình dưới niên hiệu Vĩnh Lạc. Việc này sẽ được tuyên bố trong nước và ra ngoài, để thiên hạ đều hay. ==Phụ ghi== <ref>Phần này trích từ Minh thực lục, đoạn sau của Bình An Nam chiếu</ref> Chiếu chỉ của triều đình đã được ban xuống cho Tân Thành hầu Trương Phụ, Tổng chỉ huy khu vực kiêm Chinh Di Tướng Quân; Tây Bình hầu Mộc Thạnh, Phó tướng bên tả; Phong Thành hầu Lý Bân, Trợ tướng bên tả; Vân Dương bá Trần Tự, Trợ tướng bên hữu; cùng các quan võ cao cấp và thuộc cấp đang trấn nhậm tại Giao Chỉ. Chiếu viết: "Bọn giặc họ Lê ở An Nam đã sát hại quốc vương, tiếm quyền cai trị đất nước, tự tiện đổi quốc hiệu và đặt niên hiệu trái phép. Chúng hành xử tàn bạo, không có lòng nhân, khiến dân chúng khắp nơi đau khổ. Chúng xâm chiếm lãnh thổ lân cận, kháng lệnh triều đình, không thực hiện nghĩa vụ triều cống. Trẫm không thể dung thứ, nên đã hạ lệnh cho các khanh tiến quân trừng trị tội ác của chúng. Nhờ vào sự âm phù của Trời Đất, tổ tiên và thần linh, các tướng sĩ đã tuân mệnh thi hành. Hễ nơi nào binh lực đến, nơi ấy đều được bình định. Tên giặc phản Lê Quý Ly, con hắn và các quan lại ngụy đều đã bị bắt. Người hiền lương được an ủi, kẻ quy thuận được tiếp nhận và chăm sóc, không ai bị tổn hại dù là nhỏ nhất. Chợ búa vẫn yên ổn, tin thắng trận đã truyền về. Thật là điều đáng khen ngợi lớn lao. Xưa kia, dưới triều Tống và Nguyên, An Nam từng kháng chỉ. Triều đình đã nhiều lần khởi binh trừng phạt nhưng đều không thành công. Nay chiến dịch này đã vượt xa các lần trước, danh tiếng và công lao sẽ truyền mãi trăm đời. Trẫm nay sai đặc sứ mang chiếu thư ban khen và an ủi. Hiện đang giữa mùa hè oi bức, các khanh nên chọn nơi cao ráo, mát mẻ để nghỉ quân. Đợi tiết trời mát mẻ rồi mới rút quân về." Chiếu chỉ tiếp theo được ban xuống cho Trương Phụ và các tướng lĩnh như sau: {{chú thích cuối trang}} ---- Xem thêm bản tiếng Anh: * Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/reign/yong-le/year-5-month-6-day-1, accessed 19 June 2025 {{PD-old}} [[Thể loại:Văn học Trung Quốc]] [[Thể loại:Chiếu]] 8j4tm7tlwgvyq0s8wvf3qga68h31vxp 195800 195799 2025-06-19T07:26:36Z Mrfly911 2215 /* Phụ ghi */ 195800 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 平安南詔 - Bình An Nam chiếu | tác giả = Minh Thành Tổ | dịch giả = | năm = 1407 | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Ngày 5 tháng 7 năm 1407 (Âm lịch: ngày mồng 1 tháng 6 âm lịch năm Vĩnh Lạc thứ 5, tức ngày Quý Mùi), [[w:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]] (Chu Lệ) sau khi xuất binh tiến đánh nước An Nam do [[w:nhà Hồ|nhà Hồ]] đang nắm quyền, ban chiếu bố cáo thiên hạ. }} ---- {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! &nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 朕祇奉皇圖,恪尊成憲,弘敷至化,期四海之樂,永保太和,俾萬物之咸遂,夙夜兢業,弗敢怠遑。仰惟皇考太祖高皇帝混一天下,懷柔遠人,安南陳日煃慕義向風,率先職貢,遂封為安南王,世有其土。比者,賊臣黎季犛及子蒼弒其國主,戕及闔家,毒痛生民,怨聲載路,詭易姓名為胡一元,子為胡𡗨,隱蔽其實,詭稱陳甥,誑言陳氏絕嗣,請求襲封,朕念國人無統,聽允所云。幸成奸謀,肆無忌憚,自謂聖優三皇,德高五帝,以文武為不足法,周孔為不足師,僭國號曰大虞,紀年元聖,自稱兩宮皇帝,冒用朝廷禮儀,招納逋逃,陽奉正朔;覬覦南詔,窺伺廣西,據思明府之數州,侵寧遠州之七寨,虜其子女,毆其人民,欺占城孱弱,奪其土疆,逼與章服,要其貢賦;累使曉諭,怙惡弗悛;安南王孫奔竄來訴,稱賊謬陳誠款,請迎君之,乃伏兵要殺於途,拒辱朝使;朕遣人賜占城禮物,又劫使臣而奪之。蠢茲凶竪,積惡如山,四海之所不容,神人之所憤怒。興言至此,衋然傷懷,實不得已,是用興師,期伐罪以吊民,將興滅而繼絕,爰命總兵官征夷將軍新城侯張輔等率師八十萬討之,飛度富良,深入逆境,桓桓虎旅,威名雷霆,業業凶徒,勢如拉朽,七百萬之眾須臾而盡,二千里之國次第皆平,生擒逆賊黎季犛及子黎蒼、黎澄與其家屬,並偽將相官僚徐季貔、胡杜等,撫納降附,綏輯良善,遍求陳氏子孫立之,其國之官吏、耆老人等咸稱為黎賊殺戮已盡,無可繼承,又稱:「安南本古交州,為中國郡縣,論污夷習,及茲有年,今幸泛掃欃槍,磢剷蕪穢,原復古郡縣,與民更新。」朕俯徇輿情,人其所請,置交址都指揮使司、交址等處承宣布政使司、交址等處提刑按察使司及軍民衙門,設官分理,廓清海徼之妖氛,變革遐邦之舊俗,所有合行事宜,條列於後,安南王陳氏為黎賊所弒,死於非命,宜與贈謚,慰其幽冥;其子孫宗族有為黎賊所害者,宜贈以官,有司皆具名來聞。陳氏子孫既為黎賊盡戮,宗祀廢絕,有司宜與建祠,其墳墓蕪廢,宜與修治,祠墳各給民三十戶供祭掃。安南官吏軍民人等為黎賊驅迫死亡者眾,暴露可憫,有司即為埋瘞。安南郡縣官吏皆陳氏舊人,為黎賊威脅,本非得已,詔書到日,凡在職役者悉仍其舊。然民久染夷俗,宜設官兼治,教以中國禮法。黎賊數年以來,為政若猛,毒虐其民,今悉廢除之,宣布朝廷政令,以安眾庶。安南各處關隘,有結聚人民守把營寨及逃避海島者,詔書到日,即便解散。其民罹黎賊困苦已久,有司宜善撫恤,使安生業,無致失所。其官吏軍民有為黎賊所害,或黥刺徒配,或全家流徙不得其所,及一應被害之人,詔書到日,悉放回原籍復業,所在有司即便起發,毋得停留。其有囚繫於獄者,即時放遣。安南境內凡有高年碩德,有司即加禮待。及鰥寡孤獨之人無依倚者,為立養濟院以存恤之。有懷才抱德可用之士,有司以禮敦遣至京,量才於本土敍用。安南與占城、百夷等處接界,宜各守疆境,毋致侵越,亦不許軍民人等私通外境,私自下海販鬻番貨,違者依律治罪。於戲!威武再揚,豈予心之所欲;元惡既殛,實有眾之同情。廣施一視之仁,永樂太平之治,布告中外,咸使聞知。 </poem> | <poem> Trẫm kỳ phụng hoàng đồ, khác tôn thành hiến, hoằng phu chí hóa, kỳ tứ hải chi lạc, vĩnh bảo thái hòa, tỷ vạn vật chi hàm toại, túc dạ căng nghiệp, phất cảm đãi hoàng. Ngưỡng duy Hoàng khảo Thái Tổ Cao Hoàng đế<ref>Tức [[w:Minh Thái Tổ|Minh Thái Tổ]]</ref> hỗn nhất thiên hạ, hoài nhu viễn nhân, An Nam Trần Nhật Khuê<ref>Tức [[Tác gia:Trần Dụ Tông|Trần Dụ Tông]]</ref> mộ nghĩa hướng phong, suất tiên chức cống, toại phong vi An Nam vương, thế hữu kỳ thổ. Bỉ giả, tặc thần Lê Quý Ly cập tử Thương<ref>Tức cha con [[Tác gia:Hồ Quý Ly|Hồ Quý Ly]] và [[w:Hồ Hán Thương|Hồ Hán Thương]]</ref> thí kỳ quốc chủ, tường cập hạp gia, độc thống sinh dân, oán thanh tái lộ, quỷ dịch tính danh vi Hồ Nhất Nguyên, tử vi Hồ Đê, ẩn tế kỳ thực, quỷ xưng Trần sanh, cuống ngôn Trần thị tuyệt tự, thỉnh cầu tập phong, trẫm niệm quốc nhân vô thống, thính doãn sở vân. Hạnh thành gian mưu, tứ vô kỵ đạn, tự vị thánh ưu Tam hoàng, đức cao Ngũ đế<ref>Xem [[w:Tam Hoàng Ngũ Đế|Tam hoàng Ngũ đế]]</ref>, dĩ Văn Vũ<ref>Tức [[w:Cơ Xương|Chu Văn vương]] và [[w:Chu Vũ vương|Chu Vũ vương]]</ref> vi bất túc pháp, Chu Khổng<ref>Tức [[w:Chu công Đán|Chu công]] và [[w:Khổng Tử|Khổng Tử]]</ref> vi bất túc sư, tiếm quốc hiệu viết Đại Ngu, kỷ niên Nguyên Thánh, tự xưng lưỡng cung Hoàng đế, mạo dụng triều đình lễ nghi, chiêu nạp bô đào, dương phụng chính sóc; ký du Nam Chiếu, khuy tý Quảng Tây, cứ Tư Minh phủ chi sổ châu, xâm Ninh Viễn châu chi thất trại, lỗ kỳ tử nữ, ẩu kỳ nhân dân, khi Chiêm Thành sàn nhược, đoạt kỳ thổ cương, bức dữ chương phục, yếu kỳ cống phú; luy sử hiểu dụ, hỗ ác phất thuân; An Nam vương tôn<ref>Tức [[w:Trần Thiêm Bình|Trần Thiêm Bình]]</ref> bôn thoán lai tố, xưng tặc mậu trần thành khoản, thỉnh nghênh quân chi, nãi phục binh yếu sát ư đồ, cự nhục triều sứ; trẫm khiển nhân tứ Chiêm Thành lễ vật, hựu kiếp sứ thần nhi đoạt chi. Xuẩn tư hung thụ, tích ác như sơn, tứ hải chi sở bất dung, thần nhân chi sở phẫn nộ. Hưng ngôn chí thử, hực nhiên thương hoài, thực bất đắc dĩ, thị dụng hưng sư, kỳ phạt tội dĩ điếu dân, tương hưng diệt nhi kế tuyệt, viên mệnh Tổng binh quan Chinh Di tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ đẳng suất sư bát thập vạn thảo chi, phi độ Phú Lương, thâm nhập nghịch cảnh, hoàn hoàn hổ lữ, uy danh lôi đình, nghiệp nghiệp hung đồ, thế như lạp hủ, thất bách vạn chi chúng tu du nhi tận, nhị thiên lý chi quốc thứ đệ giai bình, sinh cầm nghịch tặc Lê Quý Ly cập tử Lê Thương, Lê Trừng<ref>Tức [[Tác gia:Hồ Nguyên Trừng|Hồ Nguyên Trừng]]</ref> dữ kỳ gia thuộc, tịnh ngụy tướng tương quan liêu Từ Quý Tỳ<ref>Tức Hồ Quý Tỳ, em ruột Hồ Quý Ly</ref>, Hồ Đỗ đẳng, phủ nạp hàng phụ, tuy tập lương thiện, biến cầu Trần thị tử tôn lập chi, kỳ quốc chi quan lại, kỳ lão nhân đẳng hàm xưng vi Lê tặc sát lục dĩ tận, vô khả kế thừa, hựu xưng: "An Nam bản cổ Giao Châu, vi Trung Quốc quận huyện, luận ô di tập, cập tư hữu niên, kim hạnh phiếm tảo sàm thương, sưởng sản vu uế, nguyên phục cổ quận huyện, dữ dân canh tân". Trẫm phủ tuẫn dư tình, nhân kỳ sở thỉnh, trí Giao Chỉ Đô chỉ huy sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Thừa tuyên Bố chính sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Đề hình Án sát sứ ti, cập quân dân nha môn, thiết quan phân lý, khuếch thanh hải kiếu chi yêu phân, biến cách hà bang chi cựu tục, sở hữu hợp hành sự nghi, điều liệt ư hậu, An Nam vương Trần thị vi Lê tặc sở thí, tử ư phi mệnh, nghi dữ tặng thụy, úy kỳ u minh; kỳ tử tôn tông tộc hữu vi Lê tặc sở hại giả, nghi tặng dĩ quan, hữu ti giai cụ danh lai văn. Trần thị tử tôn ký vi Lê tặc tận lục, tông tự phế tuyệt, hữu ti nghi dữ kiến từ, kỳ phần mộ vu phế, nghi dữ tu trì, từ phần các cấp dân tam thập hộ cung tế tảo. An Nam quan lại quân dân nhân đẳng vi Lê tặc khu bách tử vong giả chúng, bạo lộ khả mẫn, hữu ti tức vi mai ế. An Nam quận huyện quan lại giai Trần thị cựu nhân, vi Lê tặc uy hiếp, bản phi đắc dĩ, chiếu thư đáo nhật, phàm tại chức dịch giả tất nhưng kỳ cựu. Nhiên dân cửu nhiễm di tục, nghi thiết quan kiêm trị, giáo dĩ Trung Quốc lễ pháp. Lê tặc sổ niên dĩ lai, vi chính nhược mãnh, độc ngược kỳ dân, kim tất phế trừ chi, tuyên bố triều đình chính lệnh, dĩ an chúng thứ. An Nam các xứ quan ải, hữu kết tụ nhân dân thủ bả doanh trại cập đào tị hải đảo giả, chiếu thư đáo nhật, tức tiện giải tán. Kỳ dân ly Lê tặc khốn khổ dĩ cửu, hữu ti nghi thiện phủ tuất, sử an sinh nghiệp, vô trí thất sở. Kỳ quan lại quân dân hữu vi Lê tặc sở hại, hoặc kình thứ đồ phối, hoặc toàn gia lưu tỷ bất đắc kỳ sở, cập nhất ứng bị hại chi nhân, chiếu thư đáo nhật, tất phóng hồi nguyên tịch phục nghiệp, sở tại hữu ti tức tiện khởi phát, vô đắc đình lưu. Kỳ hữu tù hệ ư ngục giả, tức thì phóng khiển. An Nam cảnh nội phàm hữu cao niên thạc đức, hữu ti tức gia lễ đãi. Cập quan quả cô độc chi nhân vô y ỷ giả, vi lập Dưỡng tế viện dĩ tồn tuất chi. Hữu hoài tài bão đức khả dụng chi sĩ, hữu ti dĩ lễ đôn khiển chí kinh, lượng tài ư bản thổ tự dụng. An Nam dữ Chiêm Thành, bách di đẳng xứ tiếp giới, nghi các thủ cương cảnh, vô trí xâm việt, diệc bất hứa quân dân nhân đẳng tư thông ngoại cảnh, tư tự hạ hải phiến dục phiên hóa, vi giả y luật trị tội. Ô hô! Uy vũ tái dương, khởi dư tâm chi sở dục; nguyên ác ký cức, thực hữu chúng chi đồng tình. Quảng thi nhất thị chi nhân, Vĩnh Lạc<ref>Niên hiệu của [[Tác gia:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]]</ref> thái bình chi trị, bố cáo trung ngoại, hàm sử văn tri. </poem> |} ==Dịch nghĩa== Trẫm kính cẩn tiếp nhận việc trị vì thiên hạ, một lòng noi theo khuôn phép, rộng truyền ảnh hưởng của bậc Thánh hiền. Trẫm mong muốn muôn dân trong bốn bể đều được an vui, thịnh vượng, mãi hưởng thái bình. Như thế, từ sớm đến tối, ai nấy đều chuyên cần làm việc, không ai dám lười nhác. Kính ghi rằng, tiên hoàng – Cao Hoàng Đế Thái Tổ (Minh Thái Tổ) – đã thống nhất thiên hạ, yêu thương cả những dân tộc nơi xa. Trần Nhật Khuể 日煃 nước An Nam kính trọng chính nghĩa, hướng về văn hóa của triều đình. Ông là người đầu tiên đến triều cống, vì thế được phong làm quốc vương nước An Nam, con cháu đời đời nối nghiệp giữ lấy lãnh thổ. Gần đây, tên gian thần Lê Quý Ly cùng con là Thương đã sát hại quốc vương, tàn sát cả hoàng tộc. Chúng đối xử tàn bạo, hiểm ác với dân chúng, khiến oán hận và bất bình lan tràn khắp phố phường. Lê Quý Ly tự tiện đổi tên thành Hồ Nhất Nguyên, con hắn là Hồ Đê, rồi che giấu sự thật, giả xưng là con cháu họ Trần. Hắn gian trá tuyên bố dòng họ Trần đã tuyệt tự, rồi xin được kế thừa vương vị. Trẫm lo rằng dân chúng sẽ không có người cai trị, nên tạm thuận theo lời hắn. Nhưng hắn lại vui mừng trong gian trá, âm mưu phản nghịch, hành động ngông cuồng không kiêng dè. Hắn tự xưng vượt cả Tam Hoàng, đức hạnh hơn Ngũ Đế, noi gương Văn Vương, Vũ Vương mà còn tự cho là học vấn hơn Chu Công, Khổng Tử. Hắn trái phép lập quốc hiệu là Đại Ngu, niên hiệu là Nguyên Thánh, tự xưng là Lưỡng Cung Hoàng Đế, mô phỏng nghi lễ triều đình. Hắn dung nạp kẻ trốn tránh, giả vờ tôn kính lịch triều đình nhưng lại khát vọng hướng về Nam Chiếu, do thám Quảng Tây, chờ thời cơ. Hắn chiếm cứ nhiều châu thuộc phủ Tư Minh, đoạt bảy đồn trại ở Ninh Viễn, bắt con trai con gái, xua đuổi dân lành. Thừa lúc Chiêm Thành suy yếu, hắn chiếm đất, ép vua Chiêm nhận ấn tín và áo mũ, bắt triều cống và nộp thuế. Triều đình đã nhiều lần sai sứ đến khuyên răn rõ ràng, nhưng hắn vẫn không hối cải, tiếp tục làm điều ác. Một người cháu của quốc vương nước An Nam, từng trốn chạy và ẩn náu, sau đó đến triều đình để trình bày nỗi oan. Tên giặc Ly giả vờ trung thành, xin được phụng sự người cháu ấy như chủ. Nhưng quân của hắn đã phục kích trên đường, sát hại người cháu kia. Hắn còn cản trở và nhục mạ sứ giả của triều đình. Khi trẫm sai người mang lễ vật đến ban cho Chiêm Thành, hắn cũng cướp đoạt sứ giả và chiếm lấy lễ vật. Hắn ngu muội chọn con đường tàn bạo, chất chồng ác nghiệp như núi. Việc ấy không thể dung thứ trong bốn bể, khiến cả thần linh lẫn con người đều phẫn nộ. Trẫm vốn chỉ dùng lời lẽ để khuyên răn, nhưng hắn vẫn tiếp tục gây hại và làm điều ác. Vì thế, không còn cách nào khác ngoài việc khởi binh để trừng phạt kẻ nghịch, an ủi dân chúng, và khôi phục dòng dõi đã bị đoạn tuyệt. Trương Phụ, tước Tân Thành hầu, được sắc phong làm Chinh Di Tướng Quân kiêm Tổng chỉ huy khu vực, cùng các tướng lĩnh khác dẫn đại quân tám trăm nghìn binh sĩ tiến đánh kẻ phản nghịch. Đoàn quân vượt nhanh sông Phú Lương, tiến sâu vào đất giặc. Thế quân như sấm sét, khiến bọn phản loạn hoảng loạn, tan rã như gỗ mục. Bảy triệu quân giặc bị tiêu diệt trong chớp mắt. Sau đó, vùng đất rộng hai nghìn dặm được hoàn toàn bình định. Tên giặc phản Lê Quý Ly, cùng các con là Lê Thương, Lê Trừng và toàn bộ gia quyến bị bắt sống. Các tướng giả, quan lại ngụy như Lê Quý Tỳ, Hồ Đỗ và những kẻ đồng đảng cũng đều bị bắt giữ. Những người quy thuận và trở lại thần phục đều được chăm sóc chu đáo, người hiền đức được an ủi và khuyến khích. Triều đình đã tìm kiếm khắp nơi hậu duệ nam của dòng họ Trần để lập làm vua. Nhưng các quan lại và bô lão trong nước đều tâu rằng bọn giặc họ Lê (Quý Ly) đã giết sạch nam nhân trong hoàng tộc, không còn ai có thể kế vị ngai vàng. Họ cũng nói rằng An Nam xưa vốn là Giao Châu, một đơn vị hành chính của Trung Quốc, nhưng về sau dân chúng rơi vào lối sống man di, kéo dài nhiều năm. Nay, họ vui mừng vì tên phản loạn đã bị tiêu diệt, cỏ dại đã được nhổ sạch, và mong muốn khôi phục lại các châu huyện xưa, chấn hưng dân chúng. Trẫm thuận theo lòng dân, chuẩn y lời thỉnh cầu ấy. Vì thế, Trẫm thiết lập Ủy ban Quân sự khu vực Giao Chỉ, cùng với cơ quan hành chính tỉnh Giao Chỉ và các nơi khác, và cơ quan giám sát tỉnh Giao Chỉ và các nơi khác, đồng thời đặt các nha môn quân sự và dân sự, bổ nhiệm quan lại để cai trị. Những ảnh hưởng tà ác từng lan tràn nơi biên viễn ven biển sẽ bị loại bỏ, và phong tục cũ của vùng đất xa xôi này sẽ được cải biến. Các biện pháp thích hợp được liệt kê dưới đây. Các vua nước An Nam thuộc dòng họ Trần đã bị bọn giặc họ Lý sát hại. Cái chết của họ trái với mệnh trời, nên cần được truy phong để an ủi linh hồn nơi chín suối. Những người con, cháu và thân tộc của họ bị giết bởi bọn giặc cũng đều được truy phong tước hiệu. Quan chức địa phương phải ghi chép đầy đủ danh tính và trình báo. Vì con cháu họ Trần đều bị giết, việc tế tự tổ tiên đã bị gián đoạn. Quan lại địa phương phải dựng miếu thờ, tu sửa phần mộ, nhổ sạch cỏ hoang. Phân bổ ba mươi hộ dân để chăm sóc miếu, và ba mươi hộ khác để trông nom phần mộ. Họ sẽ đảm nhiệm việc cúng tế và tảo mộ theo nghi lễ. Vô số quan lại, binh sĩ và dân chúng đã bị bọn giặc họ Lê bức hại đến chết. Nỗi thống khổ của họ thật đáng thương xót. Quan chức địa phương phải lo liệu việc mai táng và cúng tế cho họ. Tất cả các quan lại tại các châu huyện của An Nam vốn trung thành với triều Trần, nhưng khi bị bọn giặc họ Lê uy hiếp, đành phải tạm thời thuận theo. Nay khi chiếu chỉ triều đình được ban xuống, những người từng giữ chức vụ sẽ được phục hồi nguyên chức. Tuy nhiên, dân chúng lâu nay đã bị ảnh hưởng bởi phong tục man di, nên cần bổ nhiệm quan lại để vừa cai trị, vừa giáo hóa họ theo lễ nghĩa và pháp luật Trung Hoa. Trong nhiều năm, bọn giặc họ Lê cai trị hà khắc, tàn ác với dân chúng. Nay chúng đã bị tiêu diệt, và mệnh lệnh của triều đình đang được ban bố để đem lại thái bình cho muôn dân. Khi chiếu chỉ triều đình được ban xuống, tất cả dân chúng ở khắp nơi trong nước An Nam — những người tụ họp nơi ải, canh giữ đồn trại, hoặc lánh nạn ra các đảo ngoài biển — đều phải giải tán. Dân chúng đã chịu nhiều đau khổ dưới ách giặc họ Lê, gian nan kéo dài. Quan lại phải thể hiện lòng nhân hậu, thương xót, giúp dân ổn định nghề nghiệp, không để ai không có nơi nương tựa. Những quan lại, binh sĩ và dân thường từng bị giặc họ Lê hãm hại, bị xăm mình, bị đày ải, những gia đình ly tán không nơi cư trú, cùng tất cả những ai bị tổn hại, khi chiếu chỉ đến, đều phải được trở về quê quán, phục hồi nghề nghiệp cũ. Quan lại địa phương nơi họ đang cư trú phải tạo điều kiện cho họ hồi hương, không được giữ lại. Những người đang bị giam giữ phải được lập tức thả ra. Trong cõi An Nam, người già cả, có đức, có danh vọng phải được chính quyền kính trọng. Một nha môn cứu tế sẽ được lập để chăm lo cho những người góa bụa, mồ côi, không nơi nương tựa. Những người có tài, có đức, xứng đáng được trọng dụng, phải được quan lại địa phương đưa về kinh thành với nghi lễ trang trọng. Tài năng của họ sẽ được khảo xét và bổ nhiệm tại địa phương. An Nam giáp giới với Chiêm Thành, Bạch Di và các nơi khác. Tất cả đều phải giữ vững biên cương, không được vượt qua. Quân dân không được tự ý vượt biên, giao dịch riêng, hay vượt biển buôn bán hàng hóa phiên bang. Ai vi phạm sẽ bị xử theo pháp luật. Thật vậy, việc thể hiện uy quyền không phải là điều lòng Trẫm mong muốn. Nhưng kẻ đại nghịch đã bị tiêu diệt, điều ấy được lòng dân. Trẫm sẽ rộng ban ân đức, coi muôn dân như nhau, thiết lập nền trị bình dưới niên hiệu Vĩnh Lạc. Việc này sẽ được tuyên bố trong nước và ra ngoài, để thiên hạ đều hay. ==Phụ ghi== <ref>Phần này trích từ [[w:Minh thực lục]], đoạn sau của Bình An Nam chiếu</ref> Chiếu chỉ của triều đình đã được ban xuống cho Tân Thành hầu Trương Phụ, Tổng chỉ huy khu vực kiêm Chinh Di Tướng Quân; Tây Bình hầu Mộc Thạnh, Phó tướng bên tả; Phong Thành hầu Lý Bân, Trợ tướng bên tả; Vân Dương bá Trần Tự, Trợ tướng bên hữu; cùng các quan võ cao cấp và thuộc cấp đang trấn nhậm tại Giao Chỉ. Chiếu viết: "Bọn giặc họ Lê ở An Nam đã sát hại quốc vương, tiếm quyền cai trị đất nước, tự tiện đổi quốc hiệu và đặt niên hiệu trái phép. Chúng hành xử tàn bạo, không có lòng nhân, khiến dân chúng khắp nơi đau khổ. Chúng xâm chiếm lãnh thổ lân cận, kháng lệnh triều đình, không thực hiện nghĩa vụ triều cống. Trẫm không thể dung thứ, nên đã hạ lệnh cho các khanh tiến quân trừng trị tội ác của chúng. Nhờ vào sự âm phù của Trời Đất, tổ tiên và thần linh, các tướng sĩ đã tuân mệnh thi hành. Hễ nơi nào binh lực đến, nơi ấy đều được bình định. Tên giặc phản Lê Quý Ly, con hắn và các quan lại ngụy đều đã bị bắt. Người hiền lương được an ủi, kẻ quy thuận được tiếp nhận và chăm sóc, không ai bị tổn hại dù là nhỏ nhất. Chợ búa vẫn yên ổn, tin thắng trận đã truyền về. Thật là điều đáng khen ngợi lớn lao. Xưa kia, dưới triều Tống và Nguyên, An Nam từng kháng chỉ. Triều đình đã nhiều lần khởi binh trừng phạt nhưng đều không thành công. Nay chiến dịch này đã vượt xa các lần trước, danh tiếng và công lao sẽ truyền mãi trăm đời. Trẫm nay sai đặc sứ mang chiếu thư ban khen và an ủi. Hiện đang giữa mùa hè oi bức, các khanh nên chọn nơi cao ráo, mát mẻ để nghỉ quân. Đợi tiết trời mát mẻ rồi mới rút quân về." Chiếu chỉ tiếp theo được ban xuống cho Trương Phụ và các tướng lĩnh như sau: "Trước đây, khanh đã dâng biểu của lão thần Mạc Tuy và những người khác, trình rằng toàn bộ nam nhân của dòng họ Trần đã bị bọn giặc họ Lê sát hại, không còn ai có thể kế vị, đồng thời xin khôi phục chế độ cũ và tái lập các châu huyện xưa. Trẫm đã lệnh cho khanh đặc biệt lưu tâm điều tra việc ấy. Nay biểu tấu đã được tiếp nhận, xác nhận rằng dòng họ Trần đã tuyệt tự, mà các châu huyện cần có người cai trị, nên xin lập ba cơ quan để quản lý quân dân. Trẫm chuẩn y như lời thỉnh cầu. Hãy lập Ủy ban Quân sự khu vực Giao Chỉ, giao cho Phó Tổng chỉ huy Lục Nghị phụ trách, Hoàng Trung làm phó. Khanh cũng phải chọn thêm hai vị Tổng chỉ huy có tài để làm trợ lý. Ủy ban Hành chính tỉnh và Ủy ban Giám sát tỉnh Giao Chỉ đều do Thượng thư Hoàng Phúc đứng đầu. Nguyên Thị lang Bộ Công Trương Hiến Tông và Phó Sứ Tả Phúc Kiến Vương Bình được bổ nhiệm làm Hành chính Sứ Tả và Hữu. Nguyên Phó Sứ Tả Hà Nam Lưu Bổn và Phó Sứ Hữu Lưu Dư được bổ nhiệm làm Phó Hành chính Sứ Tả và Hữu. Nguyên Giám sát Sứ Giang Tây Chu Quán Chính và người An Nam quy thuận là Bùi Bá Kỳ được bổ nhiệm làm Trợ Hành chính Sứ Tả và Hữu. Nguyên Giám sát Sứ Hà Nam Nguyễn Hữu Chương và Phó Giám sát Sứ Dương Trí được bổ nhiệm làm Phó Giám sát Sứ. Nguyên Tri phủ Thái Bình Lưu Hữu Niên được bổ nhiệm làm Trợ Giám sát Sứ. Các quan lại khác cũng đã được tuyển chọn và phái đi, sẽ đảm nhiệm các chức vụ dân sự tại các phủ, châu, huyện. Khanh phải ghi chép và tâu rõ việc bổ nhiệm. Nếu số lượng chưa đủ, sẽ có chiếu chỉ gửi Bộ Lại để tuyển thêm. Các ấn tín hiện đang được gửi đến để khanh trao cho các quan được bổ nhiệm." {{chú thích cuối trang}} ---- Xem thêm bản tiếng Anh: * Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/reign/yong-le/year-5-month-6-day-1, accessed 19 June 2025 {{PD-old}} [[Thể loại:Văn học Trung Quốc]] [[Thể loại:Chiếu]] 2e9vfbbj2fpuw1d9bxsm9ttkjl77k3n 195801 195800 2025-06-19T07:27:37Z Mrfly911 2215 195801 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 平安南詔 - Bình An Nam chiếu | tác giả = Minh Thành Tổ | dịch giả = | năm = 1407 | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Ngày 5 tháng 7 năm 1407 (Âm lịch: ngày mồng 1 tháng 6 âm lịch năm Vĩnh Lạc thứ 5, tức ngày Quý Mùi), [[w:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]] (Chu Lệ) sau khi xuất binh tiến đánh nước An Nam do [[w:nhà Hồ|nhà Hồ]] đang nắm quyền, ban chiếu bố cáo thiên hạ. }} ---- {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! &nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 朕祇奉皇圖,恪尊成憲,弘敷至化,期四海之樂,永保太和,俾萬物之咸遂,夙夜兢業,弗敢怠遑。仰惟皇考太祖高皇帝混一天下,懷柔遠人,安南陳日煃慕義向風,率先職貢,遂封為安南王,世有其土。比者,賊臣黎季犛及子蒼弒其國主,戕及闔家,毒痛生民,怨聲載路,詭易姓名為胡一元,子為胡𡗨,隱蔽其實,詭稱陳甥,誑言陳氏絕嗣,請求襲封,朕念國人無統,聽允所云。幸成奸謀,肆無忌憚,自謂聖優三皇,德高五帝,以文武為不足法,周孔為不足師,僭國號曰大虞,紀年元聖,自稱兩宮皇帝,冒用朝廷禮儀,招納逋逃,陽奉正朔;覬覦南詔,窺伺廣西,據思明府之數州,侵寧遠州之七寨,虜其子女,毆其人民,欺占城孱弱,奪其土疆,逼與章服,要其貢賦;累使曉諭,怙惡弗悛;安南王孫奔竄來訴,稱賊謬陳誠款,請迎君之,乃伏兵要殺於途,拒辱朝使;朕遣人賜占城禮物,又劫使臣而奪之。蠢茲凶竪,積惡如山,四海之所不容,神人之所憤怒。興言至此,衋然傷懷,實不得已,是用興師,期伐罪以吊民,將興滅而繼絕,爰命總兵官征夷將軍新城侯張輔等率師八十萬討之,飛度富良,深入逆境,桓桓虎旅,威名雷霆,業業凶徒,勢如拉朽,七百萬之眾須臾而盡,二千里之國次第皆平,生擒逆賊黎季犛及子黎蒼、黎澄與其家屬,並偽將相官僚徐季貔、胡杜等,撫納降附,綏輯良善,遍求陳氏子孫立之,其國之官吏、耆老人等咸稱為黎賊殺戮已盡,無可繼承,又稱:「安南本古交州,為中國郡縣,論污夷習,及茲有年,今幸泛掃欃槍,磢剷蕪穢,原復古郡縣,與民更新。」朕俯徇輿情,人其所請,置交址都指揮使司、交址等處承宣布政使司、交址等處提刑按察使司及軍民衙門,設官分理,廓清海徼之妖氛,變革遐邦之舊俗,所有合行事宜,條列於後,安南王陳氏為黎賊所弒,死於非命,宜與贈謚,慰其幽冥;其子孫宗族有為黎賊所害者,宜贈以官,有司皆具名來聞。陳氏子孫既為黎賊盡戮,宗祀廢絕,有司宜與建祠,其墳墓蕪廢,宜與修治,祠墳各給民三十戶供祭掃。安南官吏軍民人等為黎賊驅迫死亡者眾,暴露可憫,有司即為埋瘞。安南郡縣官吏皆陳氏舊人,為黎賊威脅,本非得已,詔書到日,凡在職役者悉仍其舊。然民久染夷俗,宜設官兼治,教以中國禮法。黎賊數年以來,為政若猛,毒虐其民,今悉廢除之,宣布朝廷政令,以安眾庶。安南各處關隘,有結聚人民守把營寨及逃避海島者,詔書到日,即便解散。其民罹黎賊困苦已久,有司宜善撫恤,使安生業,無致失所。其官吏軍民有為黎賊所害,或黥刺徒配,或全家流徙不得其所,及一應被害之人,詔書到日,悉放回原籍復業,所在有司即便起發,毋得停留。其有囚繫於獄者,即時放遣。安南境內凡有高年碩德,有司即加禮待。及鰥寡孤獨之人無依倚者,為立養濟院以存恤之。有懷才抱德可用之士,有司以禮敦遣至京,量才於本土敍用。安南與占城、百夷等處接界,宜各守疆境,毋致侵越,亦不許軍民人等私通外境,私自下海販鬻番貨,違者依律治罪。於戲!威武再揚,豈予心之所欲;元惡既殛,實有眾之同情。廣施一視之仁,永樂太平之治,布告中外,咸使聞知。 </poem> | <poem> Trẫm kỳ phụng hoàng đồ, khác tôn thành hiến, hoằng phu chí hóa, kỳ tứ hải chi lạc, vĩnh bảo thái hòa, tỷ vạn vật chi hàm toại, túc dạ căng nghiệp, phất cảm đãi hoàng. Ngưỡng duy Hoàng khảo Thái Tổ Cao Hoàng đế<ref>Tức [[w:Minh Thái Tổ|Minh Thái Tổ]]</ref> hỗn nhất thiên hạ, hoài nhu viễn nhân, An Nam Trần Nhật Khuê<ref>Tức [[Tác gia:Trần Dụ Tông|Trần Dụ Tông]]</ref> mộ nghĩa hướng phong, suất tiên chức cống, toại phong vi An Nam vương, thế hữu kỳ thổ. Bỉ giả, tặc thần Lê Quý Ly cập tử Thương<ref>Tức cha con [[Tác gia:Hồ Quý Ly|Hồ Quý Ly]] và [[w:Hồ Hán Thương|Hồ Hán Thương]]</ref> thí kỳ quốc chủ, tường cập hạp gia, độc thống sinh dân, oán thanh tái lộ, quỷ dịch tính danh vi Hồ Nhất Nguyên, tử vi Hồ Đê, ẩn tế kỳ thực, quỷ xưng Trần sanh, cuống ngôn Trần thị tuyệt tự, thỉnh cầu tập phong, trẫm niệm quốc nhân vô thống, thính doãn sở vân. Hạnh thành gian mưu, tứ vô kỵ đạn, tự vị thánh ưu Tam hoàng, đức cao Ngũ đế<ref>Xem [[w:Tam Hoàng Ngũ Đế|Tam hoàng Ngũ đế]]</ref>, dĩ Văn Vũ<ref>Tức [[w:Cơ Xương|Chu Văn vương]] và [[w:Chu Vũ vương|Chu Vũ vương]]</ref> vi bất túc pháp, Chu Khổng<ref>Tức [[w:Chu công Đán|Chu công]] và [[w:Khổng Tử|Khổng Tử]]</ref> vi bất túc sư, tiếm quốc hiệu viết Đại Ngu, kỷ niên Nguyên Thánh, tự xưng lưỡng cung Hoàng đế, mạo dụng triều đình lễ nghi, chiêu nạp bô đào, dương phụng chính sóc; ký du Nam Chiếu, khuy tý Quảng Tây, cứ Tư Minh phủ chi sổ châu, xâm Ninh Viễn châu chi thất trại, lỗ kỳ tử nữ, ẩu kỳ nhân dân, khi Chiêm Thành sàn nhược, đoạt kỳ thổ cương, bức dữ chương phục, yếu kỳ cống phú; luy sử hiểu dụ, hỗ ác phất thuân; An Nam vương tôn<ref>Tức [[w:Trần Thiêm Bình|Trần Thiêm Bình]]</ref> bôn thoán lai tố, xưng tặc mậu trần thành khoản, thỉnh nghênh quân chi, nãi phục binh yếu sát ư đồ, cự nhục triều sứ; trẫm khiển nhân tứ Chiêm Thành lễ vật, hựu kiếp sứ thần nhi đoạt chi. Xuẩn tư hung thụ, tích ác như sơn, tứ hải chi sở bất dung, thần nhân chi sở phẫn nộ. Hưng ngôn chí thử, hực nhiên thương hoài, thực bất đắc dĩ, thị dụng hưng sư, kỳ phạt tội dĩ điếu dân, tương hưng diệt nhi kế tuyệt, viên mệnh Tổng binh quan Chinh Di tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ đẳng suất sư bát thập vạn thảo chi, phi độ Phú Lương, thâm nhập nghịch cảnh, hoàn hoàn hổ lữ, uy danh lôi đình, nghiệp nghiệp hung đồ, thế như lạp hủ, thất bách vạn chi chúng tu du nhi tận, nhị thiên lý chi quốc thứ đệ giai bình, sinh cầm nghịch tặc Lê Quý Ly cập tử Lê Thương, Lê Trừng<ref>Tức [[Tác gia:Hồ Nguyên Trừng|Hồ Nguyên Trừng]]</ref> dữ kỳ gia thuộc, tịnh ngụy tướng tương quan liêu Từ Quý Tỳ<ref>Tức Hồ Quý Tỳ, em ruột Hồ Quý Ly</ref>, Hồ Đỗ đẳng, phủ nạp hàng phụ, tuy tập lương thiện, biến cầu Trần thị tử tôn lập chi, kỳ quốc chi quan lại, kỳ lão nhân đẳng hàm xưng vi Lê tặc sát lục dĩ tận, vô khả kế thừa, hựu xưng: "An Nam bản cổ Giao Châu, vi Trung Quốc quận huyện, luận ô di tập, cập tư hữu niên, kim hạnh phiếm tảo sàm thương, sưởng sản vu uế, nguyên phục cổ quận huyện, dữ dân canh tân". Trẫm phủ tuẫn dư tình, nhân kỳ sở thỉnh, trí Giao Chỉ Đô chỉ huy sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Thừa tuyên Bố chính sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Đề hình Án sát sứ ti, cập quân dân nha môn, thiết quan phân lý, khuếch thanh hải kiếu chi yêu phân, biến cách hà bang chi cựu tục, sở hữu hợp hành sự nghi, điều liệt ư hậu, An Nam vương Trần thị vi Lê tặc sở thí, tử ư phi mệnh, nghi dữ tặng thụy, úy kỳ u minh; kỳ tử tôn tông tộc hữu vi Lê tặc sở hại giả, nghi tặng dĩ quan, hữu ti giai cụ danh lai văn. Trần thị tử tôn ký vi Lê tặc tận lục, tông tự phế tuyệt, hữu ti nghi dữ kiến từ, kỳ phần mộ vu phế, nghi dữ tu trì, từ phần các cấp dân tam thập hộ cung tế tảo. An Nam quan lại quân dân nhân đẳng vi Lê tặc khu bách tử vong giả chúng, bạo lộ khả mẫn, hữu ti tức vi mai ế. An Nam quận huyện quan lại giai Trần thị cựu nhân, vi Lê tặc uy hiếp, bản phi đắc dĩ, chiếu thư đáo nhật, phàm tại chức dịch giả tất nhưng kỳ cựu. Nhiên dân cửu nhiễm di tục, nghi thiết quan kiêm trị, giáo dĩ Trung Quốc lễ pháp. Lê tặc sổ niên dĩ lai, vi chính nhược mãnh, độc ngược kỳ dân, kim tất phế trừ chi, tuyên bố triều đình chính lệnh, dĩ an chúng thứ. An Nam các xứ quan ải, hữu kết tụ nhân dân thủ bả doanh trại cập đào tị hải đảo giả, chiếu thư đáo nhật, tức tiện giải tán. Kỳ dân ly Lê tặc khốn khổ dĩ cửu, hữu ti nghi thiện phủ tuất, sử an sinh nghiệp, vô trí thất sở. Kỳ quan lại quân dân hữu vi Lê tặc sở hại, hoặc kình thứ đồ phối, hoặc toàn gia lưu tỷ bất đắc kỳ sở, cập nhất ứng bị hại chi nhân, chiếu thư đáo nhật, tất phóng hồi nguyên tịch phục nghiệp, sở tại hữu ti tức tiện khởi phát, vô đắc đình lưu. Kỳ hữu tù hệ ư ngục giả, tức thì phóng khiển. An Nam cảnh nội phàm hữu cao niên thạc đức, hữu ti tức gia lễ đãi. Cập quan quả cô độc chi nhân vô y ỷ giả, vi lập Dưỡng tế viện dĩ tồn tuất chi. Hữu hoài tài bão đức khả dụng chi sĩ, hữu ti dĩ lễ đôn khiển chí kinh, lượng tài ư bản thổ tự dụng. An Nam dữ Chiêm Thành, bách di đẳng xứ tiếp giới, nghi các thủ cương cảnh, vô trí xâm việt, diệc bất hứa quân dân nhân đẳng tư thông ngoại cảnh, tư tự hạ hải phiến dục phiên hóa, vi giả y luật trị tội. Ô hô! Uy vũ tái dương, khởi dư tâm chi sở dục; nguyên ác ký cức, thực hữu chúng chi đồng tình. Quảng thi nhất thị chi nhân, Vĩnh Lạc<ref>Niên hiệu của [[Tác gia:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]]</ref> thái bình chi trị, bố cáo trung ngoại, hàm sử văn tri. </poem> |} ==Dịch nghĩa== Trẫm kính cẩn tiếp nhận việc trị vì thiên hạ, một lòng noi theo khuôn phép, rộng truyền ảnh hưởng của bậc Thánh hiền. Trẫm mong muốn muôn dân trong bốn bể đều được an vui, thịnh vượng, mãi hưởng thái bình. Như thế, từ sớm đến tối, ai nấy đều chuyên cần làm việc, không ai dám lười nhác. Kính ghi rằng, tiên hoàng – Cao Hoàng Đế Thái Tổ (Minh Thái Tổ) – đã thống nhất thiên hạ, yêu thương cả những dân tộc nơi xa. Trần Nhật Khuể 日煃 nước An Nam kính trọng chính nghĩa, hướng về văn hóa của triều đình. Ông là người đầu tiên đến triều cống, vì thế được phong làm quốc vương nước An Nam, con cháu đời đời nối nghiệp giữ lấy lãnh thổ. Gần đây, tên gian thần Lê Quý Ly cùng con là Thương đã sát hại quốc vương, tàn sát cả hoàng tộc. Chúng đối xử tàn bạo, hiểm ác với dân chúng, khiến oán hận và bất bình lan tràn khắp phố phường. Lê Quý Ly tự tiện đổi tên thành Hồ Nhất Nguyên, con hắn là Hồ Đê, rồi che giấu sự thật, giả xưng là con cháu họ Trần. Hắn gian trá tuyên bố dòng họ Trần đã tuyệt tự, rồi xin được kế thừa vương vị. Trẫm lo rằng dân chúng sẽ không có người cai trị, nên tạm thuận theo lời hắn. Nhưng hắn lại vui mừng trong gian trá, âm mưu phản nghịch, hành động ngông cuồng không kiêng dè. Hắn tự xưng vượt cả Tam Hoàng, đức hạnh hơn Ngũ Đế, noi gương Văn Vương, Vũ Vương mà còn tự cho là học vấn hơn Chu Công, Khổng Tử. Hắn trái phép lập quốc hiệu là Đại Ngu, niên hiệu là Nguyên Thánh, tự xưng là Lưỡng Cung Hoàng Đế, mô phỏng nghi lễ triều đình. Hắn dung nạp kẻ trốn tránh, giả vờ tôn kính lịch triều đình nhưng lại khát vọng hướng về Nam Chiếu, do thám Quảng Tây, chờ thời cơ. Hắn chiếm cứ nhiều châu thuộc phủ Tư Minh, đoạt bảy đồn trại ở Ninh Viễn, bắt con trai con gái, xua đuổi dân lành. Thừa lúc Chiêm Thành suy yếu, hắn chiếm đất, ép vua Chiêm nhận ấn tín và áo mũ, bắt triều cống và nộp thuế. Triều đình đã nhiều lần sai sứ đến khuyên răn rõ ràng, nhưng hắn vẫn không hối cải, tiếp tục làm điều ác. Một người cháu của quốc vương nước An Nam, từng trốn chạy và ẩn náu, sau đó đến triều đình để trình bày nỗi oan. Tên giặc Ly giả vờ trung thành, xin được phụng sự người cháu ấy như chủ. Nhưng quân của hắn đã phục kích trên đường, sát hại người cháu kia. Hắn còn cản trở và nhục mạ sứ giả của triều đình. Khi trẫm sai người mang lễ vật đến ban cho Chiêm Thành, hắn cũng cướp đoạt sứ giả và chiếm lấy lễ vật. Hắn ngu muội chọn con đường tàn bạo, chất chồng ác nghiệp như núi. Việc ấy không thể dung thứ trong bốn bể, khiến cả thần linh lẫn con người đều phẫn nộ. Trẫm vốn chỉ dùng lời lẽ để khuyên răn, nhưng hắn vẫn tiếp tục gây hại và làm điều ác. Vì thế, không còn cách nào khác ngoài việc khởi binh để trừng phạt kẻ nghịch, an ủi dân chúng, và khôi phục dòng dõi đã bị đoạn tuyệt. Trương Phụ, tước Tân Thành hầu, được sắc phong làm Chinh Di Tướng Quân kiêm Tổng chỉ huy khu vực, cùng các tướng lĩnh khác dẫn đại quân tám trăm nghìn binh sĩ tiến đánh kẻ phản nghịch. Đoàn quân vượt nhanh sông Phú Lương, tiến sâu vào đất giặc. Thế quân như sấm sét, khiến bọn phản loạn hoảng loạn, tan rã như gỗ mục. Bảy triệu quân giặc bị tiêu diệt trong chớp mắt. Sau đó, vùng đất rộng hai nghìn dặm được hoàn toàn bình định. Tên giặc phản Lê Quý Ly, cùng các con là Lê Thương, Lê Trừng và toàn bộ gia quyến bị bắt sống. Các tướng giả, quan lại ngụy như Lê Quý Tỳ, Hồ Đỗ và những kẻ đồng đảng cũng đều bị bắt giữ. Những người quy thuận và trở lại thần phục đều được chăm sóc chu đáo, người hiền đức được an ủi và khuyến khích. Triều đình đã tìm kiếm khắp nơi hậu duệ nam của dòng họ Trần để lập làm vua. Nhưng các quan lại và bô lão trong nước đều tâu rằng bọn giặc họ Lê (Quý Ly) đã giết sạch nam nhân trong hoàng tộc, không còn ai có thể kế vị ngai vàng. Họ cũng nói rằng An Nam xưa vốn là Giao Châu, một đơn vị hành chính của Trung Quốc, nhưng về sau dân chúng rơi vào lối sống man di, kéo dài nhiều năm. Nay, họ vui mừng vì tên phản loạn đã bị tiêu diệt, cỏ dại đã được nhổ sạch, và mong muốn khôi phục lại các châu huyện xưa, chấn hưng dân chúng. Trẫm thuận theo lòng dân, chuẩn y lời thỉnh cầu ấy. Vì thế, Trẫm thiết lập Ủy ban Quân sự khu vực Giao Chỉ, cùng với cơ quan hành chính tỉnh Giao Chỉ và các nơi khác, và cơ quan giám sát tỉnh Giao Chỉ và các nơi khác, đồng thời đặt các nha môn quân sự và dân sự, bổ nhiệm quan lại để cai trị. Những ảnh hưởng tà ác từng lan tràn nơi biên viễn ven biển sẽ bị loại bỏ, và phong tục cũ của vùng đất xa xôi này sẽ được cải biến. Các biện pháp thích hợp được liệt kê dưới đây. Các vua nước An Nam thuộc dòng họ Trần đã bị bọn giặc họ Lý sát hại. Cái chết của họ trái với mệnh trời, nên cần được truy phong để an ủi linh hồn nơi chín suối. Những người con, cháu và thân tộc của họ bị giết bởi bọn giặc cũng đều được truy phong tước hiệu. Quan chức địa phương phải ghi chép đầy đủ danh tính và trình báo. Vì con cháu họ Trần đều bị giết, việc tế tự tổ tiên đã bị gián đoạn. Quan lại địa phương phải dựng miếu thờ, tu sửa phần mộ, nhổ sạch cỏ hoang. Phân bổ ba mươi hộ dân để chăm sóc miếu, và ba mươi hộ khác để trông nom phần mộ. Họ sẽ đảm nhiệm việc cúng tế và tảo mộ theo nghi lễ. Vô số quan lại, binh sĩ và dân chúng đã bị bọn giặc họ Lê bức hại đến chết. Nỗi thống khổ của họ thật đáng thương xót. Quan chức địa phương phải lo liệu việc mai táng và cúng tế cho họ. Tất cả các quan lại tại các châu huyện của An Nam vốn trung thành với triều Trần, nhưng khi bị bọn giặc họ Lê uy hiếp, đành phải tạm thời thuận theo. Nay khi chiếu chỉ triều đình được ban xuống, những người từng giữ chức vụ sẽ được phục hồi nguyên chức. Tuy nhiên, dân chúng lâu nay đã bị ảnh hưởng bởi phong tục man di, nên cần bổ nhiệm quan lại để vừa cai trị, vừa giáo hóa họ theo lễ nghĩa và pháp luật Trung Hoa. Trong nhiều năm, bọn giặc họ Lê cai trị hà khắc, tàn ác với dân chúng. Nay chúng đã bị tiêu diệt, và mệnh lệnh của triều đình đang được ban bố để đem lại thái bình cho muôn dân. Khi chiếu chỉ triều đình được ban xuống, tất cả dân chúng ở khắp nơi trong nước An Nam — những người tụ họp nơi ải, canh giữ đồn trại, hoặc lánh nạn ra các đảo ngoài biển — đều phải giải tán. Dân chúng đã chịu nhiều đau khổ dưới ách giặc họ Lê, gian nan kéo dài. Quan lại phải thể hiện lòng nhân hậu, thương xót, giúp dân ổn định nghề nghiệp, không để ai không có nơi nương tựa. Những quan lại, binh sĩ và dân thường từng bị giặc họ Lê hãm hại, bị xăm mình, bị đày ải, những gia đình ly tán không nơi cư trú, cùng tất cả những ai bị tổn hại, khi chiếu chỉ đến, đều phải được trở về quê quán, phục hồi nghề nghiệp cũ. Quan lại địa phương nơi họ đang cư trú phải tạo điều kiện cho họ hồi hương, không được giữ lại. Những người đang bị giam giữ phải được lập tức thả ra. Trong cõi An Nam, người già cả, có đức, có danh vọng phải được chính quyền kính trọng. Một nha môn cứu tế sẽ được lập để chăm lo cho những người góa bụa, mồ côi, không nơi nương tựa. Những người có tài, có đức, xứng đáng được trọng dụng, phải được quan lại địa phương đưa về kinh thành với nghi lễ trang trọng. Tài năng của họ sẽ được khảo xét và bổ nhiệm tại địa phương. An Nam giáp giới với Chiêm Thành, Bạch Di và các nơi khác. Tất cả đều phải giữ vững biên cương, không được vượt qua. Quân dân không được tự ý vượt biên, giao dịch riêng, hay vượt biển buôn bán hàng hóa phiên bang. Ai vi phạm sẽ bị xử theo pháp luật. Thật vậy, việc thể hiện uy quyền không phải là điều lòng Trẫm mong muốn. Nhưng kẻ đại nghịch đã bị tiêu diệt, điều ấy được lòng dân. Trẫm sẽ rộng ban ân đức, coi muôn dân như nhau, thiết lập nền trị bình dưới niên hiệu Vĩnh Lạc. Việc này sẽ được tuyên bố trong nước và ra ngoài, để thiên hạ đều hay. ==Phụ ghi== <ref>Phần này trích từ [[w:Minh thực lục|Minh thực lục]], đoạn sau của Bình An Nam chiếu</ref> Chiếu chỉ của triều đình đã được ban xuống cho Tân Thành hầu Trương Phụ, Tổng chỉ huy khu vực kiêm Chinh Di Tướng Quân; Tây Bình hầu Mộc Thạnh, Phó tướng bên tả; Phong Thành hầu Lý Bân, Trợ tướng bên tả; Vân Dương bá Trần Tự, Trợ tướng bên hữu; cùng các quan võ cao cấp và thuộc cấp đang trấn nhậm tại Giao Chỉ. Chiếu viết: "Bọn giặc họ Lê ở An Nam đã sát hại quốc vương, tiếm quyền cai trị đất nước, tự tiện đổi quốc hiệu và đặt niên hiệu trái phép. Chúng hành xử tàn bạo, không có lòng nhân, khiến dân chúng khắp nơi đau khổ. Chúng xâm chiếm lãnh thổ lân cận, kháng lệnh triều đình, không thực hiện nghĩa vụ triều cống. Trẫm không thể dung thứ, nên đã hạ lệnh cho các khanh tiến quân trừng trị tội ác của chúng. Nhờ vào sự âm phù của Trời Đất, tổ tiên và thần linh, các tướng sĩ đã tuân mệnh thi hành. Hễ nơi nào binh lực đến, nơi ấy đều được bình định. Tên giặc phản Lê Quý Ly, con hắn và các quan lại ngụy đều đã bị bắt. Người hiền lương được an ủi, kẻ quy thuận được tiếp nhận và chăm sóc, không ai bị tổn hại dù là nhỏ nhất. Chợ búa vẫn yên ổn, tin thắng trận đã truyền về. Thật là điều đáng khen ngợi lớn lao. Xưa kia, dưới triều Tống và Nguyên, An Nam từng kháng chỉ. Triều đình đã nhiều lần khởi binh trừng phạt nhưng đều không thành công. Nay chiến dịch này đã vượt xa các lần trước, danh tiếng và công lao sẽ truyền mãi trăm đời. Trẫm nay sai đặc sứ mang chiếu thư ban khen và an ủi. Hiện đang giữa mùa hè oi bức, các khanh nên chọn nơi cao ráo, mát mẻ để nghỉ quân. Đợi tiết trời mát mẻ rồi mới rút quân về." Chiếu chỉ tiếp theo được ban xuống cho Trương Phụ và các tướng lĩnh như sau: "Trước đây, khanh đã dâng biểu của lão thần Mạc Tuy và những người khác, trình rằng toàn bộ nam nhân của dòng họ Trần đã bị bọn giặc họ Lê sát hại, không còn ai có thể kế vị, đồng thời xin khôi phục chế độ cũ và tái lập các châu huyện xưa. Trẫm đã lệnh cho khanh đặc biệt lưu tâm điều tra việc ấy. Nay biểu tấu đã được tiếp nhận, xác nhận rằng dòng họ Trần đã tuyệt tự, mà các châu huyện cần có người cai trị, nên xin lập ba cơ quan để quản lý quân dân. Trẫm chuẩn y như lời thỉnh cầu. Hãy lập Ủy ban Quân sự khu vực Giao Chỉ, giao cho Phó Tổng chỉ huy Lục Nghị phụ trách, Hoàng Trung làm phó. Khanh cũng phải chọn thêm hai vị Tổng chỉ huy có tài để làm trợ lý. Ủy ban Hành chính tỉnh và Ủy ban Giám sát tỉnh Giao Chỉ đều do Thượng thư Hoàng Phúc đứng đầu. Nguyên Thị lang Bộ Công Trương Hiến Tông và Phó Sứ Tả Phúc Kiến Vương Bình được bổ nhiệm làm Hành chính Sứ Tả và Hữu. Nguyên Phó Sứ Tả Hà Nam Lưu Bổn và Phó Sứ Hữu Lưu Dư được bổ nhiệm làm Phó Hành chính Sứ Tả và Hữu. Nguyên Giám sát Sứ Giang Tây Chu Quán Chính và người An Nam quy thuận là Bùi Bá Kỳ được bổ nhiệm làm Trợ Hành chính Sứ Tả và Hữu. Nguyên Giám sát Sứ Hà Nam Nguyễn Hữu Chương và Phó Giám sát Sứ Dương Trí được bổ nhiệm làm Phó Giám sát Sứ. Nguyên Tri phủ Thái Bình Lưu Hữu Niên được bổ nhiệm làm Trợ Giám sát Sứ. Các quan lại khác cũng đã được tuyển chọn và phái đi, sẽ đảm nhiệm các chức vụ dân sự tại các phủ, châu, huyện. Khanh phải ghi chép và tâu rõ việc bổ nhiệm. Nếu số lượng chưa đủ, sẽ có chiếu chỉ gửi Bộ Lại để tuyển thêm. Các ấn tín hiện đang được gửi đến để khanh trao cho các quan được bổ nhiệm." {{chú thích cuối trang}} ---- Xem thêm bản tiếng Anh: * Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/reign/yong-le/year-5-month-6-day-1, accessed 19 June 2025 {{PD-old}} [[Thể loại:Văn học Trung Quốc]] [[Thể loại:Chiếu]] o5r0odctn3inhd3nx4gz5ctdepd0efr 195836 195801 2025-06-19T10:32:20Z Mrfly911 2215 /* Dịch nghĩa */ Dịch lại theo nguồn Hán văn. 195836 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 平安南詔 - Bình An Nam chiếu | tác giả = Minh Thành Tổ | dịch giả = | năm = 1407 | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Ngày 5 tháng 7 năm 1407 (Âm lịch: ngày mồng 1 tháng 6 âm lịch năm Vĩnh Lạc thứ 5, tức ngày Quý Mùi), [[w:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]] (Chu Lệ) sau khi xuất binh tiến đánh nước An Nam do [[w:nhà Hồ|nhà Hồ]] đang nắm quyền, ban chiếu bố cáo thiên hạ. }} ---- {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! &nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 朕祇奉皇圖,恪尊成憲,弘敷至化,期四海之樂,永保太和,俾萬物之咸遂,夙夜兢業,弗敢怠遑。仰惟皇考太祖高皇帝混一天下,懷柔遠人,安南陳日煃慕義向風,率先職貢,遂封為安南王,世有其土。比者,賊臣黎季犛及子蒼弒其國主,戕及闔家,毒痛生民,怨聲載路,詭易姓名為胡一元,子為胡𡗨,隱蔽其實,詭稱陳甥,誑言陳氏絕嗣,請求襲封,朕念國人無統,聽允所云。幸成奸謀,肆無忌憚,自謂聖優三皇,德高五帝,以文武為不足法,周孔為不足師,僭國號曰大虞,紀年元聖,自稱兩宮皇帝,冒用朝廷禮儀,招納逋逃,陽奉正朔;覬覦南詔,窺伺廣西,據思明府之數州,侵寧遠州之七寨,虜其子女,毆其人民,欺占城孱弱,奪其土疆,逼與章服,要其貢賦;累使曉諭,怙惡弗悛;安南王孫奔竄來訴,稱賊謬陳誠款,請迎君之,乃伏兵要殺於途,拒辱朝使;朕遣人賜占城禮物,又劫使臣而奪之。蠢茲凶竪,積惡如山,四海之所不容,神人之所憤怒。興言至此,衋然傷懷,實不得已,是用興師,期伐罪以吊民,將興滅而繼絕,爰命總兵官征夷將軍新城侯張輔等率師八十萬討之,飛度富良,深入逆境,桓桓虎旅,威名雷霆,業業凶徒,勢如拉朽,七百萬之眾須臾而盡,二千里之國次第皆平,生擒逆賊黎季犛及子黎蒼、黎澄與其家屬,並偽將相官僚徐季貔、胡杜等,撫納降附,綏輯良善,遍求陳氏子孫立之,其國之官吏、耆老人等咸稱為黎賊殺戮已盡,無可繼承,又稱:「安南本古交州,為中國郡縣,論污夷習,及茲有年,今幸泛掃欃槍,磢剷蕪穢,原復古郡縣,與民更新。」朕俯徇輿情,人其所請,置交址都指揮使司、交址等處承宣布政使司、交址等處提刑按察使司及軍民衙門,設官分理,廓清海徼之妖氛,變革遐邦之舊俗,所有合行事宜,條列於後,安南王陳氏為黎賊所弒,死於非命,宜與贈謚,慰其幽冥;其子孫宗族有為黎賊所害者,宜贈以官,有司皆具名來聞。陳氏子孫既為黎賊盡戮,宗祀廢絕,有司宜與建祠,其墳墓蕪廢,宜與修治,祠墳各給民三十戶供祭掃。安南官吏軍民人等為黎賊驅迫死亡者眾,暴露可憫,有司即為埋瘞。安南郡縣官吏皆陳氏舊人,為黎賊威脅,本非得已,詔書到日,凡在職役者悉仍其舊。然民久染夷俗,宜設官兼治,教以中國禮法。黎賊數年以來,為政若猛,毒虐其民,今悉廢除之,宣布朝廷政令,以安眾庶。安南各處關隘,有結聚人民守把營寨及逃避海島者,詔書到日,即便解散。其民罹黎賊困苦已久,有司宜善撫恤,使安生業,無致失所。其官吏軍民有為黎賊所害,或黥刺徒配,或全家流徙不得其所,及一應被害之人,詔書到日,悉放回原籍復業,所在有司即便起發,毋得停留。其有囚繫於獄者,即時放遣。安南境內凡有高年碩德,有司即加禮待。及鰥寡孤獨之人無依倚者,為立養濟院以存恤之。有懷才抱德可用之士,有司以禮敦遣至京,量才於本土敍用。安南與占城、百夷等處接界,宜各守疆境,毋致侵越,亦不許軍民人等私通外境,私自下海販鬻番貨,違者依律治罪。於戲!威武再揚,豈予心之所欲;元惡既殛,實有眾之同情。廣施一視之仁,永樂太平之治,布告中外,咸使聞知。 </poem> | <poem> Trẫm kỳ phụng hoàng đồ, khác tôn thành hiến, hoằng phu chí hóa, kỳ tứ hải chi lạc, vĩnh bảo thái hòa, tỷ vạn vật chi hàm toại, túc dạ căng nghiệp, phất cảm đãi hoàng. Ngưỡng duy Hoàng khảo Thái Tổ Cao Hoàng đế<ref>Tức [[w:Minh Thái Tổ|Minh Thái Tổ]]</ref> hỗn nhất thiên hạ, hoài nhu viễn nhân, An Nam Trần Nhật Khuê<ref>Tức [[Tác gia:Trần Dụ Tông|Trần Dụ Tông]]</ref> mộ nghĩa hướng phong, suất tiên chức cống, toại phong vi An Nam vương, thế hữu kỳ thổ. Bỉ giả, tặc thần Lê Quý Ly cập tử Thương<ref>Tức cha con [[Tác gia:Hồ Quý Ly|Hồ Quý Ly]] và [[w:Hồ Hán Thương|Hồ Hán Thương]]</ref> thí kỳ quốc chủ, tường cập hạp gia, độc thống sinh dân, oán thanh tái lộ, quỷ dịch tính danh vi Hồ Nhất Nguyên, tử vi Hồ Đê, ẩn tế kỳ thực, quỷ xưng Trần sanh, cuống ngôn Trần thị tuyệt tự, thỉnh cầu tập phong, trẫm niệm quốc nhân vô thống, thính doãn sở vân. Hạnh thành gian mưu, tứ vô kỵ đạn, tự vị thánh ưu Tam hoàng, đức cao Ngũ đế<ref>Xem [[w:Tam Hoàng Ngũ Đế|Tam hoàng Ngũ đế]]</ref>, dĩ Văn Vũ<ref>Tức [[w:Cơ Xương|Chu Văn vương]] và [[w:Chu Vũ vương|Chu Vũ vương]]</ref> vi bất túc pháp, Chu Khổng<ref>Tức [[w:Chu công Đán|Chu công]] và [[w:Khổng Tử|Khổng Tử]]</ref> vi bất túc sư, tiếm quốc hiệu viết Đại Ngu, kỷ niên Nguyên Thánh, tự xưng lưỡng cung Hoàng đế, mạo dụng triều đình lễ nghi, chiêu nạp bô đào, dương phụng chính sóc; ký du Nam Chiếu, khuy tý Quảng Tây, cứ Tư Minh phủ chi sổ châu, xâm Ninh Viễn châu chi thất trại, lỗ kỳ tử nữ, ẩu kỳ nhân dân, khi Chiêm Thành sàn nhược, đoạt kỳ thổ cương, bức dữ chương phục, yếu kỳ cống phú; luy sử hiểu dụ, hỗ ác phất thuân; An Nam vương tôn<ref>Tức [[w:Trần Thiêm Bình|Trần Thiêm Bình]]</ref> bôn thoán lai tố, xưng tặc mậu trần thành khoản, thỉnh nghênh quân chi, nãi phục binh yếu sát ư đồ, cự nhục triều sứ; trẫm khiển nhân tứ Chiêm Thành lễ vật, hựu kiếp sứ thần nhi đoạt chi. Xuẩn tư hung thụ, tích ác như sơn, tứ hải chi sở bất dung, thần nhân chi sở phẫn nộ. Hưng ngôn chí thử, hực nhiên thương hoài, thực bất đắc dĩ, thị dụng hưng sư, kỳ phạt tội dĩ điếu dân, tương hưng diệt nhi kế tuyệt, viên mệnh Tổng binh quan Chinh Di tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ đẳng suất sư bát thập vạn thảo chi, phi độ Phú Lương, thâm nhập nghịch cảnh, hoàn hoàn hổ lữ, uy danh lôi đình, nghiệp nghiệp hung đồ, thế như lạp hủ, thất bách vạn chi chúng tu du nhi tận, nhị thiên lý chi quốc thứ đệ giai bình, sinh cầm nghịch tặc Lê Quý Ly cập tử Lê Thương, Lê Trừng<ref>Tức [[Tác gia:Hồ Nguyên Trừng|Hồ Nguyên Trừng]]</ref> dữ kỳ gia thuộc, tịnh ngụy tướng tương quan liêu Từ Quý Tỳ<ref>Tức Hồ Quý Tỳ, em ruột Hồ Quý Ly</ref>, Hồ Đỗ đẳng, phủ nạp hàng phụ, tuy tập lương thiện, biến cầu Trần thị tử tôn lập chi, kỳ quốc chi quan lại, kỳ lão nhân đẳng hàm xưng vi Lê tặc sát lục dĩ tận, vô khả kế thừa, hựu xưng: "An Nam bản cổ Giao Châu, vi Trung Quốc quận huyện, luận ô di tập, cập tư hữu niên, kim hạnh phiếm tảo sàm thương, sưởng sản vu uế, nguyên phục cổ quận huyện, dữ dân canh tân". Trẫm phủ tuẫn dư tình, nhân kỳ sở thỉnh, trí Giao Chỉ Đô chỉ huy sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Thừa tuyên Bố chính sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Đề hình Án sát sứ ti, cập quân dân nha môn, thiết quan phân lý, khuếch thanh hải kiếu chi yêu phân, biến cách hà bang chi cựu tục, sở hữu hợp hành sự nghi, điều liệt ư hậu, An Nam vương Trần thị vi Lê tặc sở thí, tử ư phi mệnh, nghi dữ tặng thụy, úy kỳ u minh; kỳ tử tôn tông tộc hữu vi Lê tặc sở hại giả, nghi tặng dĩ quan, hữu ti giai cụ danh lai văn. Trần thị tử tôn ký vi Lê tặc tận lục, tông tự phế tuyệt, hữu ti nghi dữ kiến từ, kỳ phần mộ vu phế, nghi dữ tu trì, từ phần các cấp dân tam thập hộ cung tế tảo. An Nam quan lại quân dân nhân đẳng vi Lê tặc khu bách tử vong giả chúng, bạo lộ khả mẫn, hữu ti tức vi mai ế. An Nam quận huyện quan lại giai Trần thị cựu nhân, vi Lê tặc uy hiếp, bản phi đắc dĩ, chiếu thư đáo nhật, phàm tại chức dịch giả tất nhưng kỳ cựu. Nhiên dân cửu nhiễm di tục, nghi thiết quan kiêm trị, giáo dĩ Trung Quốc lễ pháp. Lê tặc sổ niên dĩ lai, vi chính nhược mãnh, độc ngược kỳ dân, kim tất phế trừ chi, tuyên bố triều đình chính lệnh, dĩ an chúng thứ. An Nam các xứ quan ải, hữu kết tụ nhân dân thủ bả doanh trại cập đào tị hải đảo giả, chiếu thư đáo nhật, tức tiện giải tán. Kỳ dân ly Lê tặc khốn khổ dĩ cửu, hữu ti nghi thiện phủ tuất, sử an sinh nghiệp, vô trí thất sở. Kỳ quan lại quân dân hữu vi Lê tặc sở hại, hoặc kình thứ đồ phối, hoặc toàn gia lưu tỷ bất đắc kỳ sở, cập nhất ứng bị hại chi nhân, chiếu thư đáo nhật, tất phóng hồi nguyên tịch phục nghiệp, sở tại hữu ti tức tiện khởi phát, vô đắc đình lưu. Kỳ hữu tù hệ ư ngục giả, tức thì phóng khiển. An Nam cảnh nội phàm hữu cao niên thạc đức, hữu ti tức gia lễ đãi. Cập quan quả cô độc chi nhân vô y ỷ giả, vi lập Dưỡng tế viện dĩ tồn tuất chi. Hữu hoài tài bão đức khả dụng chi sĩ, hữu ti dĩ lễ đôn khiển chí kinh, lượng tài ư bản thổ tự dụng. An Nam dữ Chiêm Thành, bách di đẳng xứ tiếp giới, nghi các thủ cương cảnh, vô trí xâm việt, diệc bất hứa quân dân nhân đẳng tư thông ngoại cảnh, tư tự hạ hải phiến dục phiên hóa, vi giả y luật trị tội. Ô hô! Uy vũ tái dương, khởi dư tâm chi sở dục; nguyên ác ký cức, thực hữu chúng chi đồng tình. Quảng thi nhất thị chi nhân, Vĩnh Lạc<ref>Niên hiệu của [[Tác gia:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]]</ref> thái bình chi trị, bố cáo trung ngoại, hàm sử văn tri. </poem> |} ==Dịch nghĩa== Trẫm chỉ phụng mệnh theo bản đồ của tổ tông, kính cẩn tôn trọng pháp chế đã định, mở rộng giáo hóa sâu xa, mong cho bốn biển đều được hưởng thái bình, mãi giữ sự hòa thuận lớn, khiến muôn vật đều được phát triển. Sớm tối lo toan việc nước, không dám lười biếng. Ngẫm lại tiên tổ là Thái Tổ Cao Hoàng Đế đã thống nhất thiên hạ, dùng đức để cảm hóa người phương xa. An Nam là nước của Trần Nhật Khuể, cảm nghĩa mà hướng về, đi đầu trong việc triều cống, nên được phong làm An Nam Vương, đời đời giữ đất ấy. Gần đây, tên nghịch thần Lê Quý Ly cùng con là Lê Thương đã giết vua nước ấy, sát hại cả gia tộc, gây đau thương cho dân chúng, tiếng oán đầy đường. Hắn giả đổi tên là Hồ Nhất Nguyên, con là Hồ Hán Thương, che giấu sự thật, giả xưng là cháu họ nhà Trần, nói dối rằng họ Trần đã tuyệt tự, xin được nối ngôi. Trẫm nghĩ dân nước ấy không còn người đứng đầu, nên thuận theo lời hắn. Không ngờ hắn thành công trong mưu gian, ngang nhiên không kiêng dè, tự cho mình là thánh vượt ba hoàng, đức cao hơn năm đế, cho rằng văn võ không đáng làm gương, Chu Công Khổng Tử không đáng làm thầy. Hắn tự xưng quốc hiệu là Đại Ngu, đặt niên hiệu là “Nguyên Thánh”, tự gọi mình là “Lưỡng cung hoàng đế”, giả mạo nghi lễ triều đình, chiêu mộ kẻ trốn tránh, ngoài mặt thì theo chính thống. Hắn dòm ngó Nam Chiếu, rình rập Quảng Tây, chiếm mấy châu thuộc phủ Tư Minh, xâm lấn bảy trại của châu Ninh Viễn, bắt con gái, đánh dân chúng. Thấy nước Chiêm Thành yếu thế, hắn chiếm đất đai, ép buộc mặc trang phục, đòi nộp cống phẩm. Triều đình nhiều lần sai sứ khuyên bảo, nhưng hắn vẫn ngoan cố không sửa. Cháu của An Nam Vương phải trốn chạy đến triều đình kêu oan, nói rằng giặc giả vờ dâng biểu xin đón vua về, nhưng lại phục binh giết người giữa đường, sỉ nhục sứ giả. Trẫm sai người ban lễ vật cho Chiêm Thành, hắn lại cướp đoạt và bắt giữ sứ thần. Tên nghịch tặc ngu xuẩn ấy, tội ác chất chồng như núi, là kẻ mà bốn biển không dung, trời người đều phẫn nộ. Nhắc đến đây, lòng đau như cắt, thật là bất đắc dĩ, nên Trẫm mới khởi binh, nhằm đánh kẻ có tội để cứu dân, muốn khôi phục nước đã mất, nối lại dòng dõi đã tuyệt. Bèn sai Chinh Di tướng quân, Hầu tước Tân Thành là Trương Phụ làm tổng binh, cùng các tướng lĩnh đem tám mươi vạn quân đi đánh. Quân vượt sông Phú Lương như bay, tiến sâu vào đất giặc. Quân đội hùng mạnh như hổ, uy danh vang như sấm sét; bọn giặc hung ác như mục nát bị cuốn trôi. Bảy triệu quân giặc bị tiêu diệt trong chốc lát, đất nước hai ngàn dặm lần lượt được bình định. Bắt sống tên nghịch tặc Lê Quý Ly cùng con là Lê Thương, Lê Trừng và cả gia quyến, cùng các quan lại, tướng tá giả mạo như Từ Quý Tỳ<ref>Lê Quý Tỳ, em trai Lê Quý Ly</ref>, Hồ Đỗ v.v. Thu phục những người đầu hàng, an ủi người lương thiện. Khắp nơi tìm kiếm con cháu họ Trần để lập lại. Quan lại, hào lão trong nước đều nói rằng: “Tên giặc Lê đã giết sạch họ Trần, không còn ai để kế thừa.” Lại nói: “An Nam vốn là đất Giao Châu xưa, là quận huyện của Trung Quốc, đã nhiễm phong tục man di từ lâu. Nay may mắn quét sạch giáo mác, dẹp bỏ ô uế, xin được khôi phục lại quận huyện như xưa, cùng dân làm lại từ đầu.” Trẫm thuận theo lòng dân, chấp thuận lời thỉnh cầu, lập ra các cơ quan hành chính như: Giao Chỉ đô chỉ huy sứ ty, Giao Chỉ thừa tuyên bố chánh sứ ty, Giao Chỉ đề hình án sát sứ ty và các nha môn quân dân, đặt quan chia việc, quét sạch tà khí nơi biên hải, thay đổi phong tục cũ nơi phương xa. Những việc cần làm đều được liệt kê sau. An Nam Vương họ Trần bị giặc Lê giết hại, chết không đúng mệnh, nên được truy phong thụy hiệu để an ủi linh hồn. Con cháu họ hàng bị giặc giết hại cũng nên được truy phong chức tước, các cơ quan hữu trách phải kê khai danh sách trình lên. Con cháu họ Trần đã bị giặc giết sạch, tông miếu bị bỏ hoang, nên lập đền thờ, tu sửa mồ mả bị hoang phế, cấp ba mươi hộ dân để lo việc cúng tế và quét dọn. Quan lại, quân dân An Nam bị giặc Lê ép buộc mà chết rất nhiều, xác phơi ngoài đồng, thật đáng thương, các cơ quan phải lập tức chôn cất. Quan lại các quận huyện ở An Nam đều là người cũ của họ Trần, bị giặc Lê đe dọa, vốn không phải tự nguyện, khi chiếu chỉ đến nơi, ai đang tại chức đều được giữ nguyên. Nhưng dân đã lâu nhiễm phong tục man di, nên cần đặt quan cai trị song song, dạy họ lễ pháp Trung Hoa. Giặc Lê mấy năm qua cai trị tàn bạo, làm hại dân chúng, nay đều bị bãi bỏ, ban bố chính lệnh triều đình để yên lòng dân. Các nơi ở An Nam có đồn trại, dân tụ tập giữ đồn hoặc trốn ra đảo, khi chiếu chỉ đến thì phải lập tức giải tán. Dân chúng đã chịu khổ dưới tay giặc Lê quá lâu, các cơ quan phải an ủi, giúp họ yên ổn làm ăn, không để họ mất nơi nương tựa. Quan lại, quân dân bị giặc hại, bị xăm mặt, đày đi, cả nhà bị lưu đày không nơi nương tựa, cùng những người bị hại khác, khi chiếu chỉ đến thì đều được trở về quê cũ, khôi phục nghề nghiệp, các cơ quan phải lập tức thi hành, không được chậm trễ. Ai đang bị giam giữ thì lập tức thả ra. Trong cõi An Nam, ai cao tuổi, có đức hạnh, các cơ quan phải kính trọng. Ai góa bụa, cô độc không nơi nương tựa thì lập viện dưỡng tế để chăm sóc. Ai có tài đức, có thể dùng được, các cơ quan phải lễ độ mời về kinh, hoặc tùy tài mà bổ dụng tại chỗ. An Nam giáp ranh với Chiêm Thành, Bách Di, cần giữ vững biên giới, không được xâm phạm. Cũng không cho phép quân dân tự ý thông thương với nước ngoài, hay tự ra biển buôn bán hàng hóa phương xa, ai vi phạm sẽ bị xử theo luật. Than ôi! Uy vũ một lần nữa được phát dương, chẳng phải là điều Trẫm mong muốn; kẻ đại ác đã bị trừng trị, thật là lòng dân đồng thuận. Ban bố lòng nhân bình đẳng, thực hiện trị bình thái hòa đời Vĩnh Lạc, công bố trong ngoài, để mọi người đều biết. ==Phụ ghi== <ref>Phần này trích từ [[w:Minh thực lục|Minh thực lục]], đoạn sau của Bình An Nam chiếu</ref> Chiếu chỉ của triều đình đã được ban xuống cho Tân Thành hầu Trương Phụ, Tổng chỉ huy khu vực kiêm Chinh Di Tướng Quân; Tây Bình hầu Mộc Thạnh, Phó tướng bên tả; Phong Thành hầu Lý Bân, Trợ tướng bên tả; Vân Dương bá Trần Tự, Trợ tướng bên hữu; cùng các quan võ cao cấp và thuộc cấp đang trấn nhậm tại Giao Chỉ. Chiếu viết: "Bọn giặc họ Lê ở An Nam đã sát hại quốc vương, tiếm quyền cai trị đất nước, tự tiện đổi quốc hiệu và đặt niên hiệu trái phép. Chúng hành xử tàn bạo, không có lòng nhân, khiến dân chúng khắp nơi đau khổ. Chúng xâm chiếm lãnh thổ lân cận, kháng lệnh triều đình, không thực hiện nghĩa vụ triều cống. Trẫm không thể dung thứ, nên đã hạ lệnh cho các khanh tiến quân trừng trị tội ác của chúng. Nhờ vào sự âm phù của Trời Đất, tổ tiên và thần linh, các tướng sĩ đã tuân mệnh thi hành. Hễ nơi nào binh lực đến, nơi ấy đều được bình định. Tên giặc phản Lê Quý Ly, con hắn và các quan lại ngụy đều đã bị bắt. Người hiền lương được an ủi, kẻ quy thuận được tiếp nhận và chăm sóc, không ai bị tổn hại dù là nhỏ nhất. Chợ búa vẫn yên ổn, tin thắng trận đã truyền về. Thật là điều đáng khen ngợi lớn lao. Xưa kia, dưới triều Tống và Nguyên, An Nam từng kháng chỉ. Triều đình đã nhiều lần khởi binh trừng phạt nhưng đều không thành công. Nay chiến dịch này đã vượt xa các lần trước, danh tiếng và công lao sẽ truyền mãi trăm đời. Trẫm nay sai đặc sứ mang chiếu thư ban khen và an ủi. Hiện đang giữa mùa hè oi bức, các khanh nên chọn nơi cao ráo, mát mẻ để nghỉ quân. Đợi tiết trời mát mẻ rồi mới rút quân về." Chiếu chỉ tiếp theo được ban xuống cho Trương Phụ và các tướng lĩnh như sau: "Trước đây, khanh đã dâng biểu của lão thần Mạc Tuy và những người khác, trình rằng toàn bộ nam nhân của dòng họ Trần đã bị bọn giặc họ Lê sát hại, không còn ai có thể kế vị, đồng thời xin khôi phục chế độ cũ và tái lập các châu huyện xưa. Trẫm đã lệnh cho khanh đặc biệt lưu tâm điều tra việc ấy. Nay biểu tấu đã được tiếp nhận, xác nhận rằng dòng họ Trần đã tuyệt tự, mà các châu huyện cần có người cai trị, nên xin lập ba cơ quan để quản lý quân dân. Trẫm chuẩn y như lời thỉnh cầu. Hãy lập Ủy ban Quân sự khu vực Giao Chỉ, giao cho Phó Tổng chỉ huy Lục Nghị phụ trách, Hoàng Trung làm phó. Khanh cũng phải chọn thêm hai vị Tổng chỉ huy có tài để làm trợ lý. Ủy ban Hành chính tỉnh và Ủy ban Giám sát tỉnh Giao Chỉ đều do Thượng thư Hoàng Phúc đứng đầu. Nguyên Thị lang Bộ Công Trương Hiến Tông và Phó Sứ Tả Phúc Kiến Vương Bình được bổ nhiệm làm Hành chính Sứ Tả và Hữu. Nguyên Phó Sứ Tả Hà Nam Lưu Bổn và Phó Sứ Hữu Lưu Dư được bổ nhiệm làm Phó Hành chính Sứ Tả và Hữu. Nguyên Giám sát Sứ Giang Tây Chu Quán Chính và người An Nam quy thuận là Bùi Bá Kỳ được bổ nhiệm làm Trợ Hành chính Sứ Tả và Hữu. Nguyên Giám sát Sứ Hà Nam Nguyễn Hữu Chương và Phó Giám sát Sứ Dương Trí được bổ nhiệm làm Phó Giám sát Sứ. Nguyên Tri phủ Thái Bình Lưu Hữu Niên được bổ nhiệm làm Trợ Giám sát Sứ. Các quan lại khác cũng đã được tuyển chọn và phái đi, sẽ đảm nhiệm các chức vụ dân sự tại các phủ, châu, huyện. Khanh phải ghi chép và tâu rõ việc bổ nhiệm. Nếu số lượng chưa đủ, sẽ có chiếu chỉ gửi Bộ Lại để tuyển thêm. Các ấn tín hiện đang được gửi đến để khanh trao cho các quan được bổ nhiệm." {{chú thích cuối trang}} ---- Xem thêm bản tiếng Anh: * Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/reign/yong-le/year-5-month-6-day-1, accessed 19 June 2025 {{PD-old}} [[Thể loại:Văn học Trung Quốc]] [[Thể loại:Chiếu]] hfy6909o3e13fys3vo1n2htzyuopm9b 195837 195836 2025-06-19T10:42:21Z Mrfly911 2215 195837 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = 平安南詔 - Bình An Nam chiếu | tác giả = Minh Thành Tổ | dịch giả = | năm = 1407 | phần = | trước = | sau = | ghi chú = Ngày 5 tháng 7 năm 1407 (Âm lịch: ngày mồng 1 tháng 6 âm lịch năm Vĩnh Lạc thứ 5, tức ngày Quý Mùi), [[w:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]] (Chu Lệ) sau khi xuất binh tiến đánh nước An Nam do [[w:nhà Hồ|nhà Hồ]] đang nắm quyền, ban chiếu bố cáo thiên hạ. }} ---- {| align="center" ! Nguyên văn chữ Hán ! &nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; Phiên âm Hán Việt |- | <poem> 朕祇奉皇圖,恪尊成憲,弘敷至化,期四海之樂,永保太和,俾萬物之咸遂,夙夜兢業,弗敢怠遑。仰惟皇考太祖高皇帝混一天下,懷柔遠人,安南陳日煃慕義向風,率先職貢,遂封為安南王,世有其土。比者,賊臣黎季犛及子蒼弒其國主,戕及闔家,毒痛生民,怨聲載路,詭易姓名為胡一元,子為胡𡗨,隱蔽其實,詭稱陳甥,誑言陳氏絕嗣,請求襲封,朕念國人無統,聽允所云。幸成奸謀,肆無忌憚,自謂聖優三皇,德高五帝,以文武為不足法,周孔為不足師,僭國號曰大虞,紀年元聖,自稱兩宮皇帝,冒用朝廷禮儀,招納逋逃,陽奉正朔;覬覦南詔,窺伺廣西,據思明府之數州,侵寧遠州之七寨,虜其子女,毆其人民,欺占城孱弱,奪其土疆,逼與章服,要其貢賦;累使曉諭,怙惡弗悛;安南王孫奔竄來訴,稱賊謬陳誠款,請迎君之,乃伏兵要殺於途,拒辱朝使;朕遣人賜占城禮物,又劫使臣而奪之。蠢茲凶竪,積惡如山,四海之所不容,神人之所憤怒。興言至此,衋然傷懷,實不得已,是用興師,期伐罪以吊民,將興滅而繼絕,爰命總兵官征夷將軍新城侯張輔等率師八十萬討之,飛度富良,深入逆境,桓桓虎旅,威名雷霆,業業凶徒,勢如拉朽,七百萬之眾須臾而盡,二千里之國次第皆平,生擒逆賊黎季犛及子黎蒼、黎澄與其家屬,並偽將相官僚徐季貔、胡杜等,撫納降附,綏輯良善,遍求陳氏子孫立之,其國之官吏、耆老人等咸稱為黎賊殺戮已盡,無可繼承,又稱:「安南本古交州,為中國郡縣,論污夷習,及茲有年,今幸泛掃欃槍,磢剷蕪穢,原復古郡縣,與民更新。」朕俯徇輿情,人其所請,置交址都指揮使司、交址等處承宣布政使司、交址等處提刑按察使司及軍民衙門,設官分理,廓清海徼之妖氛,變革遐邦之舊俗,所有合行事宜,條列於後,安南王陳氏為黎賊所弒,死於非命,宜與贈謚,慰其幽冥;其子孫宗族有為黎賊所害者,宜贈以官,有司皆具名來聞。陳氏子孫既為黎賊盡戮,宗祀廢絕,有司宜與建祠,其墳墓蕪廢,宜與修治,祠墳各給民三十戶供祭掃。安南官吏軍民人等為黎賊驅迫死亡者眾,暴露可憫,有司即為埋瘞。安南郡縣官吏皆陳氏舊人,為黎賊威脅,本非得已,詔書到日,凡在職役者悉仍其舊。然民久染夷俗,宜設官兼治,教以中國禮法。黎賊數年以來,為政若猛,毒虐其民,今悉廢除之,宣布朝廷政令,以安眾庶。安南各處關隘,有結聚人民守把營寨及逃避海島者,詔書到日,即便解散。其民罹黎賊困苦已久,有司宜善撫恤,使安生業,無致失所。其官吏軍民有為黎賊所害,或黥刺徒配,或全家流徙不得其所,及一應被害之人,詔書到日,悉放回原籍復業,所在有司即便起發,毋得停留。其有囚繫於獄者,即時放遣。安南境內凡有高年碩德,有司即加禮待。及鰥寡孤獨之人無依倚者,為立養濟院以存恤之。有懷才抱德可用之士,有司以禮敦遣至京,量才於本土敍用。安南與占城、百夷等處接界,宜各守疆境,毋致侵越,亦不許軍民人等私通外境,私自下海販鬻番貨,違者依律治罪。於戲!威武再揚,豈予心之所欲;元惡既殛,實有眾之同情。廣施一視之仁,永樂太平之治,布告中外,咸使聞知。 </poem> | <poem> Trẫm kỳ phụng hoàng đồ, khác tôn thành hiến, hoằng phu chí hóa, kỳ tứ hải chi lạc, vĩnh bảo thái hòa, tỷ vạn vật chi hàm toại, túc dạ căng nghiệp, phất cảm đãi hoàng. Ngưỡng duy Hoàng khảo Thái Tổ Cao Hoàng đế<ref>Tức [[w:Minh Thái Tổ|Minh Thái Tổ]]</ref> hỗn nhất thiên hạ, hoài nhu viễn nhân, An Nam Trần Nhật Khuê<ref>Tức [[Tác gia:Trần Dụ Tông|Trần Dụ Tông]]</ref> mộ nghĩa hướng phong, suất tiên chức cống, toại phong vi An Nam vương, thế hữu kỳ thổ. Bỉ giả, tặc thần Lê Quý Ly cập tử Thương<ref>Tức cha con [[Tác gia:Hồ Quý Ly|Hồ Quý Ly]] và [[w:Hồ Hán Thương|Hồ Hán Thương]]</ref> thí kỳ quốc chủ, tường cập hạp gia, độc thống sinh dân, oán thanh tái lộ, quỷ dịch tính danh vi Hồ Nhất Nguyên, tử vi Hồ Đê, ẩn tế kỳ thực, quỷ xưng Trần sanh, cuống ngôn Trần thị tuyệt tự, thỉnh cầu tập phong, trẫm niệm quốc nhân vô thống, thính doãn sở vân. Hạnh thành gian mưu, tứ vô kỵ đạn, tự vị thánh ưu Tam hoàng, đức cao Ngũ đế<ref>Xem [[w:Tam Hoàng Ngũ Đế|Tam hoàng Ngũ đế]]</ref>, dĩ Văn Vũ<ref>Tức [[w:Cơ Xương|Chu Văn vương]] và [[w:Chu Vũ vương|Chu Vũ vương]]</ref> vi bất túc pháp, Chu Khổng<ref>Tức [[w:Chu công Đán|Chu công]] và [[w:Khổng Tử|Khổng Tử]]</ref> vi bất túc sư, tiếm quốc hiệu viết Đại Ngu, kỷ niên Nguyên Thánh, tự xưng lưỡng cung Hoàng đế, mạo dụng triều đình lễ nghi, chiêu nạp bô đào, dương phụng chính sóc; ký du Nam Chiếu, khuy tý Quảng Tây, cứ Tư Minh phủ chi sổ châu, xâm Ninh Viễn châu chi thất trại, lỗ kỳ tử nữ, ẩu kỳ nhân dân, khi Chiêm Thành sàn nhược, đoạt kỳ thổ cương, bức dữ chương phục, yếu kỳ cống phú; luy sử hiểu dụ, hỗ ác phất thuân; An Nam vương tôn<ref>Tức [[w:Trần Thiêm Bình|Trần Thiêm Bình]]</ref> bôn thoán lai tố, xưng tặc mậu trần thành khoản, thỉnh nghênh quân chi, nãi phục binh yếu sát ư đồ, cự nhục triều sứ; trẫm khiển nhân tứ Chiêm Thành lễ vật, hựu kiếp sứ thần nhi đoạt chi. Xuẩn tư hung thụ, tích ác như sơn, tứ hải chi sở bất dung, thần nhân chi sở phẫn nộ. Hưng ngôn chí thử, hực nhiên thương hoài, thực bất đắc dĩ, thị dụng hưng sư, kỳ phạt tội dĩ điếu dân, tương hưng diệt nhi kế tuyệt, viên mệnh Tổng binh quan Chinh Di tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ đẳng suất sư bát thập vạn thảo chi, phi độ Phú Lương, thâm nhập nghịch cảnh, hoàn hoàn hổ lữ, uy danh lôi đình, nghiệp nghiệp hung đồ, thế như lạp hủ, thất bách vạn chi chúng tu du nhi tận, nhị thiên lý chi quốc thứ đệ giai bình, sinh cầm nghịch tặc Lê Quý Ly cập tử Lê Thương, Lê Trừng<ref>Tức [[Tác gia:Hồ Nguyên Trừng|Hồ Nguyên Trừng]]</ref> dữ kỳ gia thuộc, tịnh ngụy tướng tương quan liêu Từ Quý Tỳ<ref>Tức Hồ Quý Tỳ, em ruột Hồ Quý Ly</ref>, Hồ Đỗ đẳng, phủ nạp hàng phụ, tuy tập lương thiện, biến cầu Trần thị tử tôn lập chi, kỳ quốc chi quan lại, kỳ lão nhân đẳng hàm xưng vi Lê tặc sát lục dĩ tận, vô khả kế thừa, hựu xưng: "An Nam bản cổ Giao Châu, vi Trung Quốc quận huyện, luận ô di tập, cập tư hữu niên, kim hạnh phiếm tảo sàm thương, sưởng sản vu uế, nguyên phục cổ quận huyện, dữ dân canh tân". Trẫm phủ tuẫn dư tình, nhân kỳ sở thỉnh, trí Giao Chỉ Đô chỉ huy sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Thừa tuyên Bố chính sứ ti, Giao Chỉ đẳng xứ Đề hình Án sát sứ ti, cập quân dân nha môn, thiết quan phân lý, khuếch thanh hải kiếu chi yêu phân, biến cách hà bang chi cựu tục, sở hữu hợp hành sự nghi, điều liệt ư hậu, An Nam vương Trần thị vi Lê tặc sở thí, tử ư phi mệnh, nghi dữ tặng thụy, úy kỳ u minh; kỳ tử tôn tông tộc hữu vi Lê tặc sở hại giả, nghi tặng dĩ quan, hữu ti giai cụ danh lai văn. Trần thị tử tôn ký vi Lê tặc tận lục, tông tự phế tuyệt, hữu ti nghi dữ kiến từ, kỳ phần mộ vu phế, nghi dữ tu trì, từ phần các cấp dân tam thập hộ cung tế tảo. An Nam quan lại quân dân nhân đẳng vi Lê tặc khu bách tử vong giả chúng, bạo lộ khả mẫn, hữu ti tức vi mai ế. An Nam quận huyện quan lại giai Trần thị cựu nhân, vi Lê tặc uy hiếp, bản phi đắc dĩ, chiếu thư đáo nhật, phàm tại chức dịch giả tất nhưng kỳ cựu. Nhiên dân cửu nhiễm di tục, nghi thiết quan kiêm trị, giáo dĩ Trung Quốc lễ pháp. Lê tặc sổ niên dĩ lai, vi chính nhược mãnh, độc ngược kỳ dân, kim tất phế trừ chi, tuyên bố triều đình chính lệnh, dĩ an chúng thứ. An Nam các xứ quan ải, hữu kết tụ nhân dân thủ bả doanh trại cập đào tị hải đảo giả, chiếu thư đáo nhật, tức tiện giải tán. Kỳ dân ly Lê tặc khốn khổ dĩ cửu, hữu ti nghi thiện phủ tuất, sử an sinh nghiệp, vô trí thất sở. Kỳ quan lại quân dân hữu vi Lê tặc sở hại, hoặc kình thứ đồ phối, hoặc toàn gia lưu tỷ bất đắc kỳ sở, cập nhất ứng bị hại chi nhân, chiếu thư đáo nhật, tất phóng hồi nguyên tịch phục nghiệp, sở tại hữu ti tức tiện khởi phát, vô đắc đình lưu. Kỳ hữu tù hệ ư ngục giả, tức thì phóng khiển. An Nam cảnh nội phàm hữu cao niên thạc đức, hữu ti tức gia lễ đãi. Cập quan quả cô độc chi nhân vô y ỷ giả, vi lập Dưỡng tế viện dĩ tồn tuất chi. Hữu hoài tài bão đức khả dụng chi sĩ, hữu ti dĩ lễ đôn khiển chí kinh, lượng tài ư bản thổ tự dụng. An Nam dữ Chiêm Thành, bách di đẳng xứ tiếp giới, nghi các thủ cương cảnh, vô trí xâm việt, diệc bất hứa quân dân nhân đẳng tư thông ngoại cảnh, tư tự hạ hải phiến dục phiên hóa, vi giả y luật trị tội. Ô hô! Uy vũ tái dương, khởi dư tâm chi sở dục; nguyên ác ký cức, thực hữu chúng chi đồng tình. Quảng thi nhất thị chi nhân, Vĩnh Lạc<ref>Niên hiệu của [[Tác gia:Minh Thành Tổ|Minh Thành Tổ]]</ref> thái bình chi trị, bố cáo trung ngoại, hàm sử văn tri. </poem> |} ==Dịch nghĩa== Trẫm chỉ phụng mệnh theo bản đồ của tổ tông, kính cẩn tôn trọng pháp chế đã định, mở rộng giáo hóa sâu xa, mong cho bốn biển đều được hưởng thái bình, mãi giữ sự hòa thuận lớn, khiến muôn vật đều được phát triển. Sớm tối lo toan việc nước, không dám lười biếng. Ngẫm lại tiên tổ là Thái Tổ Cao Hoàng Đế đã thống nhất thiên hạ, dùng đức để cảm hóa người phương xa. An Nam là nước của Trần Nhật Khuể, cảm nghĩa mà hướng về, đi đầu trong việc triều cống, nên được phong làm An Nam Vương, đời đời giữ đất ấy. Gần đây, tên nghịch thần Lê Quý Ly cùng con là Lê Thương đã giết vua nước ấy, sát hại cả gia tộc, gây đau thương cho dân chúng, tiếng oán đầy đường. Hắn giả đổi tên là Hồ Nhất Nguyên, con là Hồ Hán Thương, che giấu sự thật, giả xưng là cháu họ nhà Trần, nói dối rằng họ Trần đã tuyệt tự, xin được nối ngôi. Trẫm nghĩ dân nước ấy không còn người đứng đầu, nên thuận theo lời hắn. Không ngờ hắn thành công trong mưu gian, ngang nhiên không kiêng dè, tự cho mình là thánh vượt ba hoàng, đức cao hơn năm đế, cho rằng văn võ không đáng làm gương, Chu Công Khổng Tử không đáng làm thầy. Hắn tự xưng quốc hiệu là Đại Ngu, đặt niên hiệu là “Nguyên Thánh”, tự gọi mình là “Lưỡng cung hoàng đế”, giả mạo nghi lễ triều đình, chiêu mộ kẻ trốn tránh, ngoài mặt thì theo chính thống. Hắn dòm ngó Nam Chiếu, rình rập Quảng Tây, chiếm mấy châu thuộc phủ Tư Minh, xâm lấn bảy trại của châu Ninh Viễn, bắt con gái, đánh dân chúng. Thấy nước Chiêm Thành yếu thế, hắn chiếm đất đai, ép buộc mặc trang phục, đòi nộp cống phẩm. Triều đình nhiều lần sai sứ khuyên bảo, nhưng hắn vẫn ngoan cố không sửa. Cháu của An Nam Vương phải trốn chạy đến triều đình kêu oan, nói rằng giặc giả vờ dâng biểu xin đón vua về, nhưng lại phục binh giết người giữa đường, sỉ nhục sứ giả. Trẫm sai người ban lễ vật cho Chiêm Thành, hắn lại cướp đoạt và bắt giữ sứ thần. Tên nghịch tặc ngu xuẩn ấy, tội ác chất chồng như núi, là kẻ mà bốn biển không dung, trời người đều phẫn nộ. Nhắc đến đây, lòng đau như cắt, thật là bất đắc dĩ, nên Trẫm mới khởi binh, nhằm đánh kẻ có tội để cứu dân, muốn khôi phục nước đã mất, nối lại dòng dõi đã tuyệt. Bèn sai Chinh Di tướng quân, Hầu tước Tân Thành là Trương Phụ làm tổng binh, cùng các tướng lĩnh đem tám mươi vạn quân đi đánh. Quân vượt sông Phú Lương như bay, tiến sâu vào đất giặc. Quân đội hùng mạnh như hổ, uy danh vang như sấm sét; bọn giặc hung ác như mục nát bị cuốn trôi. Bảy triệu quân giặc bị tiêu diệt trong chốc lát, đất nước hai ngàn dặm lần lượt được bình định. Bắt sống tên nghịch tặc Lê Quý Ly cùng con là Lê Thương, Lê Trừng và cả gia quyến, cùng các quan lại, tướng tá giả mạo như Từ Quý Tỳ<ref>Lê Quý Tỳ, em trai Lê Quý Ly</ref>, Hồ Đỗ v.v. Thu phục những người đầu hàng, an ủi người lương thiện. Khắp nơi tìm kiếm con cháu họ Trần để lập lại. Quan lại, hào lão trong nước đều nói rằng: “Tên giặc Lê đã giết sạch họ Trần, không còn ai để kế thừa.” Lại nói: “An Nam vốn là đất Giao Châu xưa, là quận huyện của Trung Quốc, đã nhiễm phong tục man di từ lâu. Nay may mắn quét sạch giáo mác, dẹp bỏ ô uế, xin được khôi phục lại quận huyện như xưa, cùng dân làm lại từ đầu.” Trẫm thuận theo lòng dân, chấp thuận lời thỉnh cầu, lập ra các cơ quan hành chính như: Giao Chỉ đô chỉ huy sứ ty, Giao Chỉ thừa tuyên bố chánh sứ ty, Giao Chỉ đề hình án sát sứ ty và các nha môn quân dân, đặt quan chia việc, quét sạch tà khí nơi biên hải, thay đổi phong tục cũ nơi phương xa. Những việc cần làm đều được liệt kê sau. An Nam Vương họ Trần bị giặc Lê giết hại, chết không đúng mệnh, nên được truy phong thụy hiệu để an ủi linh hồn. Con cháu họ hàng bị giặc giết hại cũng nên được truy phong chức tước, các cơ quan hữu trách phải kê khai danh sách trình lên. Con cháu họ Trần đã bị giặc giết sạch, tông miếu bị bỏ hoang, nên lập đền thờ, tu sửa mồ mả bị hoang phế, cấp ba mươi hộ dân để lo việc cúng tế và quét dọn. Quan lại, quân dân An Nam bị giặc Lê ép buộc mà chết rất nhiều, xác phơi ngoài đồng, thật đáng thương, các cơ quan phải lập tức chôn cất. Quan lại các quận huyện ở An Nam đều là người cũ của họ Trần, bị giặc Lê đe dọa, vốn không phải tự nguyện, khi chiếu chỉ đến nơi, ai đang tại chức đều được giữ nguyên. Nhưng dân đã lâu nhiễm phong tục man di, nên cần đặt quan cai trị song song, dạy họ lễ pháp Trung Hoa. Giặc Lê mấy năm qua cai trị tàn bạo, làm hại dân chúng, nay đều bị bãi bỏ, ban bố chính lệnh triều đình để yên lòng dân. Các nơi ở An Nam có đồn trại, dân tụ tập giữ đồn hoặc trốn ra đảo, khi chiếu chỉ đến thì phải lập tức giải tán. Dân chúng đã chịu khổ dưới tay giặc Lê quá lâu, các cơ quan phải an ủi, giúp họ yên ổn làm ăn, không để họ mất nơi nương tựa. Quan lại, quân dân bị giặc hại, bị xăm mặt, đày đi, cả nhà bị lưu đày không nơi nương tựa, cùng những người bị hại khác, khi chiếu chỉ đến thì đều được trở về quê cũ, khôi phục nghề nghiệp, các cơ quan phải lập tức thi hành, không được chậm trễ. Ai đang bị giam giữ thì lập tức thả ra. Trong cõi An Nam, ai cao tuổi, có đức hạnh, các cơ quan phải kính trọng. Ai góa bụa, cô độc không nơi nương tựa thì lập viện dưỡng tế để chăm sóc. Ai có tài đức, có thể dùng được, các cơ quan phải lễ độ mời về kinh, hoặc tùy tài mà bổ dụng tại chỗ. An Nam giáp ranh với Chiêm Thành, Bách Di, cần giữ vững biên giới, không được xâm phạm. Cũng không cho phép quân dân tự ý thông thương với nước ngoài, hay tự ra biển buôn bán hàng hóa phương xa, ai vi phạm sẽ bị xử theo luật. Than ôi! Uy vũ một lần nữa được phát dương, chẳng phải là điều Trẫm mong muốn; kẻ đại ác đã bị trừng trị, thật là lòng dân đồng thuận. Ban bố lòng nhân bình đẳng, thực hiện trị bình thái hòa đời Vĩnh Lạc, công bố trong ngoài, để mọi người đều biết. ==Phụ ghi== <ref>Phần này trích từ [[w:Minh thực lục|Minh thực lục]], đoạn sau của Bình An Nam chiếu</ref> Chiếu chỉ của triều đình đã được ban xuống cho Tân Thành hầu Trương Phụ, Tổng chỉ huy khu vực kiêm Chinh Di Tướng Quân; Tây Bình hầu Mộc Thạnh, Phó tướng bên tả; Phong Thành hầu Lý Bân, Trợ tướng bên tả; Vân Dương bá Trần Tự, Trợ tướng bên hữu; cùng các quan võ cao cấp và thuộc cấp đang trấn nhậm tại Giao Chỉ. Chiếu viết: "Bọn giặc họ Lê ở An Nam đã sát hại quốc vương, tiếm quyền cai trị đất nước, tự tiện đổi quốc hiệu và đặt niên hiệu trái phép. Chúng hành xử tàn bạo, không có lòng nhân, khiến dân chúng khắp nơi đau khổ. Chúng xâm chiếm lãnh thổ lân cận, kháng lệnh triều đình, không thực hiện nghĩa vụ triều cống. Trẫm không thể dung thứ, nên đã hạ lệnh cho các khanh tiến quân trừng trị tội ác của chúng. Nhờ vào sự âm phù của Trời Đất, tổ tiên và thần linh, các tướng sĩ đã tuân mệnh thi hành. Hễ nơi nào binh lực đến, nơi ấy đều được bình định. Tên giặc phản Lê Quý Ly, con hắn và các quan lại ngụy đều đã bị bắt. Người hiền lương được an ủi, kẻ quy thuận được tiếp nhận và chăm sóc, không ai bị tổn hại dù là nhỏ nhất. Chợ búa vẫn yên ổn, tin thắng trận đã truyền về. Thật là điều đáng khen ngợi lớn lao. Xưa kia, dưới triều Tống và Nguyên, An Nam từng kháng chỉ. Triều đình đã nhiều lần khởi binh trừng phạt nhưng đều không thành công. Nay chiến dịch này đã vượt xa các lần trước, danh tiếng và công lao sẽ truyền mãi trăm đời. Trẫm nay sai đặc sứ mang chiếu thư ban khen và an ủi. Hiện đang giữa mùa hè oi bức, các khanh nên chọn nơi cao ráo, mát mẻ để nghỉ quân. Đợi tiết trời mát mẻ rồi mới rút quân về." Chiếu chỉ tiếp theo được ban xuống cho Trương Phụ và các tướng lĩnh như sau: "Trước đây, khanh đã dâng biểu của lão thần Mạc Tuy và những người khác, trình rằng toàn bộ nam nhân của dòng họ Trần đã bị bọn giặc họ Lê sát hại, không còn ai có thể kế vị, đồng thời xin khôi phục chế độ cũ và tái lập các châu huyện xưa. Trẫm đã lệnh cho khanh đặc biệt lưu tâm điều tra việc ấy. Nay biểu tấu đã được tiếp nhận, xác nhận rằng dòng họ Trần đã tuyệt tự, mà các châu huyện cần có người cai trị, nên xin lập ba cơ quan để quản lý quân dân. Trẫm chuẩn y như lời thỉnh cầu. Hãy lập Ủy ban Quân sự khu vực Giao Chỉ, giao cho Phó Tổng chỉ huy Lục Nghị phụ trách, Hoàng Trung làm phó. Khanh cũng phải chọn thêm hai vị Tổng chỉ huy có tài để làm trợ lý. Ủy ban Hành chính tỉnh và Ủy ban Giám sát tỉnh Giao Chỉ đều do Thượng thư Hoàng Phúc đứng đầu. Nguyên Thị lang Bộ Công Trương Hiến Tông và Phó Sứ Tả Phúc Kiến Vương Bình được bổ nhiệm làm Hành chính Sứ Tả và Hữu. Nguyên Phó Sứ Tả Hà Nam Lưu Bổn và Phó Sứ Hữu Lưu Dư được bổ nhiệm làm Phó Hành chính Sứ Tả và Hữu. Nguyên Giám sát Sứ Giang Tây Chu Quán Chính và người An Nam quy thuận là Bùi Bá Kỳ được bổ nhiệm làm Trợ Hành chính Sứ Tả và Hữu. Nguyên Giám sát Sứ Hà Nam Nguyễn Hữu Chương và Phó Giám sát Sứ Dương Trí được bổ nhiệm làm Phó Giám sát Sứ. Nguyên Tri phủ Thái Bình Lưu Hữu Niên được bổ nhiệm làm Trợ Giám sát Sứ. Các quan lại khác cũng đã được tuyển chọn và phái đi, sẽ đảm nhiệm các chức vụ dân sự tại các phủ, châu, huyện. Khanh phải ghi chép và tâu rõ việc bổ nhiệm. Nếu số lượng chưa đủ, sẽ có chiếu chỉ gửi Bộ Lại để tuyển thêm. Các ấn tín hiện đang được gửi đến để khanh trao cho các quan được bổ nhiệm." {{chú thích cuối trang}} ---- Nguồn: * 明實錄/成祖文皇帝實錄/卷057#史/編年/明實錄/太宗/卷六十八_永樂五年六月(P.943) * Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/reign/yong-le/year-5-month-6-day-1, accessed 19 June 2025 {{PD-old}} [[Thể loại:Văn học Trung Quốc]] [[Thể loại:Chiếu]] gf9bhqmlcdupivz89umeh1jrhupotwz Thơ Hàn Mặc Tử/Tựa 0 68357 195832 195372 2025-06-19T09:44:31Z Tranminh360 1642 195832 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = Hàn Mặc Tử | dịch giả = | phần = Tựa | trước = | sau = [[../Thơ Đường luật|Thơ Đường luật]] | ghi chú = Đây là bài tựa tập ''Thơ điên'' (sau đổi thành ''Đau thương''). }} <pages index="Thơ Hàn Mặc Tử.pdf" from=11 to=13 /> c3ymogzuveyk371s8eucpt340nwtfum Biên dịch:Minh sử/Quyển 321 114 68372 195808 195749 2025-06-19T08:06:35Z Mrfly911 2215 Nâng cao chất lượng. 195808 wikitext text/x-wiki {{đầu đề biên dịch | tựa đề = [[../|Minh sử]] | tác giả = Trương Đình Ngọc | ngôn ngữ = zh | bản gốc = 明史/卷321 | phần = Quyển 321 liệt truyện đệ 209 Ngoại quốc 2: An Nam | trước = [[../Quyển 320|Quyển 320]] | sau = [[../Quyển 322|Quyển 322]] | ghi chú = }} ==An Nam== An Nam 安南, xưa là đất Giao Chỉ 交阯. Trước thời nhà Đường, đều thuộc Trung Quốc. Đến thời Ngũ Đại, bắt đầu bị người bản xứ là Khúc Thừa Mỹ 曲承美 chiếm giữ. Đầu thời Tống, phong cho Đinh Bộ Lĩnh 丁部領 làm Giao Chỉ quận vương 交阯郡王, truyền ba đời thì bị đại thần Lê Hoàn 黎桓 cướp ngôi. Họ Lê cũng truyền ba đời thì bị đại thần Lý Công Uẩn 李公蘊 cướp ngôi. Họ Lý truyền được tám đời, không có con, truyền ngôi cho con rể là Trần Nhật Cự 陳日炬.<ref>[[w:Trần Thái Tông|Trần Thái Tông]], húy Trần Cảnh 陳煚, Trần Nhật Quýnh 陳日煚.</ref> Nhà Nguyên nhiều lần đánh phá nước này. Năm Hồng Vũ thứ nhất (1368), vương là Nhật Khuể 日煃<ref>[[w:Trần Dụ Tông|Trần Dụ Tông]]</ref> nghe tin Liêu Vĩnh Trung 廖永忠 đã bình định được Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây), định sai sứ sang triều cống, nhưng vì Lương Vương (nhà Nguyên) còn ở Vân Nam nên chưa thực hiện được. Đến tháng Chạp, Thái Tổ <ref>Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương</ref> sai tri phủ Hán Dương là Dịch Tế sang chiêu dụ. Nhật Khuể sai Thiếu trung đại phu Đồng Thời Mẫn, Chính đại phu Đoàn Đễ, Lê An Thế... mang biểu sang triều kiến, dâng cống phẩm. Tháng Sáu năm sau, đoàn sứ đến kinh đô. Vua Minh vui mừng, ban yến tiệc, sai Thị độc học sĩ Trương Dĩ Ninh và Điển bạ Ngưu Lượng mang sắc phong cho Nhật Khuể làm An Nam quốc vương, ban cho ấn bạc khảm vàng hình lạc đà. Chiếu thư viết: "Này An Nam quốc vương Trần Nhật Khuể, tổ tiên ngươi giữ gìn biên cương phía Nam, xưng thần với Trung Quốc, kính cẩn làm bề tôi, nên được phong truyền đời. Trẫm nhờ ơn trời đất, dẹp yên Trung Hoa, nay gửi thư đáp lại. Ngươi dâng biểu xưng thần, sai sứ sang chúc mừng, noi theo lời dạy của tổ tiên, an dân nơi biên viễn. Trẫm xét lòng thành ấy, rất đáng khen ngợi. Vì vậy sai sứ mang ấn đến, phong ngươi làm An Nam quốc vương. Than ôi! Hãy lấy lòng nhân mà cai trị rộng khắp, noi theo điển lễ của bậc minh quân; phong tước vượt bậc, để nối tiếp danh thơm của tổ tiên. Hãy càng thêm đức tốt, mãi làm phiên thần, khâm thử!" Vua Minh ban cho Nhật Khuể lịch Đại Thống, gấm vóc dệt hoa bốn mươi tấm. Đồng Thời Mẫn và các người đi theo đều được ban thưởng. Khi Trương Dĩ Ninh và các sứ thần đến nơi thì Trần Nhật Khuể đã mất, cháu là Trần Nhật Kiên 日熞<ref>[[w:Dương Nhật Lễ|Dương Nhật Lễ]]</ref> lên nối ngôi. Nhật Kiên sai quan là Nguyễn Nhữ Lượng ra đón và xin nhận chiếu thư cùng ấn phong, nhưng Trương Dĩ Ninh không trao. Nhật Kiên lại sai Đỗ Thuấn Khâm cùng các sứ thần sang triều đình xin phong. Trương Dĩ Ninh ở lại An Nam chờ lệnh. Lúc đó, An Nam và Chiêm Thành đang có chiến sự. Vua Minh sai Hàn lâm biên tu La Phục Nhân và Binh bộ chủ sự Trương Phúc sang dụ hai nước ngừng chiến, cả hai đều tuân chiếu. Năm sau, Đỗ Thuấn Khâm và các sứ thần đến báo tang. Vua Minh mặc đồ tang, tiếp kiến tại cửa Tây Hoa, rồi sai biên tu Vương Liêm sang tế, ban phúng điếu gồm 50 lạng bạc trắng và 50 tấm lụa. Lại sai Lại bộ chủ sự Lâm Đường Thần phong cho Nhật Kiên làm An Nam quốc vương, ban ấn vàng và 40 tấm gấm vóc dệt hoa. Sau khi Vương Liêm đi, vua Minh nhớ công Hán Mã Viện từng lập cột đồng trấn Nam Man, công lao to lớn, nên sai Vương Liêm nhân tiện tế lễ tại đó. Sau đó, triều đình ban chiếu về khoa cử cho nước này, đồng thời đổi tên các thần núi sông và dẹp yên vùng sa mạc, hai lần sai quan sang truyền chiếu. Nhật Kiên sai Thượng đại phu Nguyễn Kiêm, Trung đại phu Mạc Quý Long, Hạ đại phu Lê Nguyên Phổ sang tạ ơn và dâng cống phẩm. Nguyễn Kiêm mất dọc đường, vua Minh ban chiếu an ủi vua và các sứ thần, cho đưa linh cữu Kiêm về nước. Chẳng bao lâu, La Phục Nhân và các sứ thần trở về, tâu rằng người An Nam từ chối nhận lễ vật tiễn đưa. Vua Minh khen ngợi, ban thưởng thêm cho Mạc Kỷ Long và các người đi theo. Năm thứ tư (1371), mùa xuân, An Nam sai sứ sang triều cống voi, chúc mừng việc bình định vùng sa mạc, lại sai sứ đi cùng Trương Dĩ Ninh và các sứ thần về triều. Mùa đông năm đó, Trần Nhật Kiên bị người bác là Trần Thúc Minh 叔明<ref>Trần Nghệ Tông</ref> ép chết. Thúc Minh sợ tội, dâng voi và cống phẩm để chuộc lỗi. Sang năm sau, sứ thần đến kinh đô, quan Lễ bộ thấy biểu không ghi tên Nhật Kiên, tra hỏi mới biết sự thật, vua Minh ra chiếu từ chối tiếp nhận. Thúc Minh lại sai sứ sang triều cống, xin tạ tội và cầu phong. Sứ thần đến nơi nói rằng Nhật Kiên thực sự đã bệnh chết, Thúc Minh vốn tránh ở ngoài, được người trong nước suy tôn lên ngôi. Vua Minh ra lệnh dân trong nước phải để tang Nhật Kiên, còn Thúc Minh thì tạm thời dùng ấn của vua trước để xử lý việc nước. Năm thứ bảy (1374), Thúc Minh sai sứ sang tạ ơn, tự xưng tuổi già, xin cho em là Trần Thoan 煓<ref>Trần Duệ Tông</ref> nhiếp chính, vua Minh đồng ý. Trần Thoan sai sứ sang tạ ơn, xin định kỳ triều cống. Vua Minh ra chiếu quy định ba năm một lần triều cống, mỗi đời vua mới thì phải sang chầu. Không lâu sau, lại sai sứ sang cống, vua Minh ra lệnh cho các quan truyền dụ từ chối, đồng thời quy định sứ thần không được quá ba bốn người, cống phẩm không được quá nhiều. Năm thứ mười (1377), Trần Thoan đem quân xâm lược Chiêm Thành, bị thua trận và tử trận. Em là Trần Vĩ 煒<ref>Minh sử lầm: Trần Vĩ là con trưởng Trần Thoan (Duệ Tông) nhưng đã chết trước đó. Người nối ngôi Trần Thoan là Trần Hiện (Trần Phế Đế), cũng con thứ của Trần Thoan chứ không phải em.</ref> lên thay, sai sứ sang báo tang, vua Minh sai nội quan Trần Năng sang tế. Lúc đó, An Nam ỷ thế mạnh, muốn diệt Chiêm Thành, nhưng ngược lại bị tổn thất nặng nề. Vua Minh sai quan sang dụ bảo cựu vương là Trần Thúc Minh không được gây hấn chuốc họa, vì thực chất Thúc Minh vẫn là người nắm quyền chính. Thúc Minh dâng cống phẩm để tạ tội. Thổ quan Tư Minh ở Quảng Tây tố cáo An Nam xâm phạm biên giới, An Nam cũng tố lại Tư Minh quấy nhiễu biên cương. Vua Minh ra hịch kể tội An Nam gian trá, ra lệnh cho các quan trấn thủ không được tiếp nhận sứ thần của họ. Trần Vĩ<ref>Trần Phế Đế</ref> sợ hãi, sai sứ sang tạ tội, nhiều năm liền dâng hoạn quan, vàng bạc, mâm vàng, bình rượu bằng vàng, voi và ngựa để làm lễ vật. Vua Minh sai trợ giáo Dương Bàn sang sứ, lệnh cho An Nam cung cấp lương thực cho quân đội Vân Nam, Trần Vĩ liền nộp 5.000 thạch gạo tại Lâm An. Năm thứ hai mươi mốt (1388), vua Minh lại sai Lễ bộ lang trung Hình Văn Vĩ mang chiếu thư và lễ vật sang ban thưởng. Trần Vĩ sai sứ sang tạ ơn, lại dâng voi. Vua Minh thấy việc triều cống quá thường xuyên và lễ vật quá xa hoa, ra lệnh giữ nguyên quy định ba năm một lần triều cống, không được dâng tê giác và voi nữa. Lúc đó, quốc tướng Lê Quý Ly 黎季犛 chuyên quyền, phế vua Trần Vĩ, rồi giết đi, lập con của Trần Thúc Minh là Trần Nhật Côn 日焜<ref>Trần Thuận Tông</ref> nắm việc nước, nhưng vẫn mượn danh nghĩa của Trần Vĩ để dâng cống. Triều đình nhà Minh không biết, vẫn tiếp nhận. Vài năm sau mới phát giác, liền ra lệnh cho quan trấn thủ Quảng Tây cắt đứt việc tiếp sứ. Lê Quý Ly sợ hãi, năm thứ hai mươi bảy (1394) sai sứ đi đường Quảng Đông để dâng cống. Vua Minh nổi giận, sai quan đến tra hỏi và từ chối nhận cống phẩm. Lê Quý Ly càng thêm lo sợ, năm sau lại dùng lời lẽ quanh co để xin dâng cống. Vua Minh tuy ghét việc hắn giết vua cướp ngôi, nhưng không muốn phiền hà việc chinh phạt xa xôi, nên chấp nhận. Lúc đó, đại quân đang đánh Triệu Tông Thọ 趙宗壽 ở Long Châu, vua Minh sai Lễ bộ thượng thư Nhâm Hanh Thái và Ngự sử Nghiêm Chấn Trực sang dụ Trần Nhật Côn, bảo đừng nghi ngờ. Lê Quý Ly nghe vậy thì hơi yên tâm. Vua Minh lại sai Hình bộ thượng thư Dương Tĩnh sang dụ, yêu cầu nộp tám vạn thạch gạo để cấp lương cho quân ở Long Châu. Lê Quý Ly chỉ nộp một vạn thạch, dâng thêm một nghìn lạng vàng, hai vạn lạng bạc, nói rằng đường bộ đến Long Châu hiểm trở, xin chuyển lương đến động Bằng Tường. Dương Tĩnh không đồng ý, ra lệnh nộp hai vạn thạch tại sông Đà Hải, nơi chỉ cách Long Châu nửa ngày đường. Dương Tĩnh tâu rằng: "Trần Nhật Côn còn nhỏ, mọi việc nước đều do cha con Lê Quý Ly quyết định, nên mới dám chần chừ như vậy." Lúc đó, vua Minh vì Triệu Tông Thọ đã chịu hàng, nên chuyển quân đi đánh các bộ tộc man ở Tượng Vũ, liền dụ Dương Tĩnh nhận hai vạn thạch gạo để cấp quân, và miễn cho số vàng bạc đã dâng. Năm sau, Lê Quý Ly báo tang Trần Thúc Minh. Vua Minh cho rằng Thúc Minh vốn là kẻ cướp ngôi giết vua, nếu cử hành lễ viếng thì chẳng khác nào khuyến khích loạn thần, nên không làm lễ, chỉ ra hịch thông báo rõ ràng. Thổ quan Tư Minh là Hoàng Quảng Thành 黃廣成 tâu rằng: "Từ thời nhà Nguyên lập phủ Tổng quản Tư Minh, quản lý các châu huyện vùng Tả Giang, phía đông giáp Tư Châu, phía nam lấy cột đồng làm ranh giới. Khi nhà Nguyên chinh phạt Giao Chỉ, lập phủ Vạn hộ trại Vĩnh Bình cách cột đồng một trăm dặm, sai quân đóng giữ, bắt người Giao cung cấp lương thực cho quân. Cuối đời Nguyên loạn lạc, người Giao đánh phá Vĩnh Bình, vượt qua cột đồng hơn hai trăm dặm, chiếm đất năm huyện Khâu Ôn, Như Ngao, Khánh Viễn, Uyên, Thoát thuộc Tư Minh. Gần đây lại tố cáo Thượng thư Nhâm đặt trạm dịch tại động Đăng địa thuộc Tư Minh. Thần từng dâng tấu đầy đủ, được sai Thượng thư Dương đi điều tra thực tế. Nay xin ra chiếu lệnh cho An Nam trả lại năm huyện, và lấy cột đồng làm ranh giới." Vua Minh sai hành nhân Trần Thành và Lữ Nhượng sang dụ, nhưng Lê Quý Ly kiên quyết không nghe. Trần Thành tự viết thư dụ Trần Nhật Côn, Lê Quý Ly lại gửi thư tranh biện, còn thay Nhật Côn viết thư gửi sang Bộ Hộ. Trần Thành và Lữ Nhượng về báo, vua Minh biết rằng họ quyết không chịu trả đất, bèn nói: "Man di tranh chấp với nhau, xưa nay vẫn có. Chúng ỷ vào ngoan cố, ắt sẽ chuốc họa, cứ chờ xem." Năm Kiến Văn nguyên niên (1399), Lê Quý Ly giết Trần Nhật Côn, lập con Côn là Trần Ngung 顒. Lại giết Ngung, lập em là Trần An 𭴣 (chữ Hán là 上安下火), lúc đó còn bọc trong tã, rồi lại giết đi.<ref>Minh sử lầm: Trần Côn và Trần Ngung đều là tên của Trần Thuận Tông. Trần An (Trần Thiếu Đế) là con Trần Côn.</ref> Tàn sát dòng họ Trần, rồi tự lập làm vua, đổi tên là Hồ Nhất Nguyên 胡一元, đặt tên con là Hồ Hán Thương 蒼 thành Hồ Đê 胡𡗨, nói là hậu duệ của vua Thuấn, dòng dõi Hồ Công. Xưng quốc hiệu là Đại Ngu, niên hiệu là Nguyên Thánh, sau đó tự xưng là Thái thượng hoàng, truyền ngôi cho Hán Thương. Triều đình nhà Minh lúc ấy vẫn chưa hay biết. Thành Tổ (Minh Thành Tổ) sau khi kế thừa đại thống, sai quan mang chiếu thư lên ngôi sang báo cho nước An Nam. Năm Vĩnh Lạc nguyên niên (1403), Hồ Đê (Hán Thương) tự xưng là quyền lý quốc sự nước An Nam, sai sứ dâng biểu triều cống, nói rằng: "Thời Cao Hoàng đế (Minh Thái Tổ), An Nam vương Nhật Khuể 日煃 là người đầu tiên tỏ lòng thành, nhưng chẳng may mất sớm, không có người kế tự. Thần là cháu ngoại họ Trần, được mọi người tôn phò, tạm quyền xử lý việc nước đến nay đã bốn năm. Ngưỡng mong ân trời ban cho tước phong, thần xin một lòng trung thành đến chết." Việc này được chuyển sang Bộ Lễ, các quan nghi ngờ, xin sai người sang điều tra. Vua Minh bèn sai hành nhân Dương Bột mang chiếu sang dụ các bầy tôi và phụ lão nước ấy, hỏi rõ việc họ Trần có còn người kế tự hay không, việc Hồ Hán Thương được tôn lập là thật hay giả, rồi báo cáo trung thực. Sứ giả của Hán Thương được ban thưởng rồi cho về, lại sai hành nhân Lữ Nhượng và Khâu Trí mang gấm vóc, lụa là sang ban thưởng. Sau đó, sứ giả của Hán Thương theo Dương Bột về triều, dâng biểu của các bầy tôi và phụ lão nước ấy, nội dung đúng như lời Hán Thương đã dối vua, xin được phong tước cho Hán Thương. Vua Minh bèn sai Lễ bộ lang trung Hạ Chỉ Thiện phong cho Hán Thương làm An Nam quốc vương. Hán Thương sai sứ sang tạ ơn, nhưng vua Minh vẫn giữ thái độ dè dặt với tình hình trong nước ấy. Các vùng Lộc Châu, Tây Bình Châu và trại Vĩnh Bình thuộc Tư Minh bị An Nam xâm chiếm. Vua Minh ra dụ lệnh yêu cầu trả lại, nhưng không nghe theo. Chiêm Thành tố cáo An Nam xâm lược cướp bóc, triều đình ra chiếu yêu cầu hòa hiếu. Hồ Hán Thương tuy nói tuân mệnh, nhưng vẫn tiếp tục xâm lược như cũ, lại còn trao ấn tín ép Chiêm Thành làm thuộc quốc, cướp đoạt cả lễ vật mà triều đình ban cho. Vua Minh tức giận, đang định sai quan đến trách mắng nghiêm khắc thì cựu bầy tôi (nhà Trần) là Bùi Bá Kỳ 裴伯耆 đến triều đình kêu oan, tâu rằng: "Tổ phụ thần đều là đại phu chấp chính, chết vì việc nước. Mẫu thân thần là người họ Trần, thuộc thân tộc gần. Thần từ nhỏ hầu hạ quốc vương, từng làm quan phẩm hàm ngũ phẩm, sau theo Vũ Tiết hầu Trần Khát Chân 武節侯陳渴真 làm phó tướng. Cuối đời Hồng Vũ, thay Khát Chân chống giặc ở Đông Hải. Nhưng nghịch thần Lê Quý Ly cha con giết vua (nhà Trần) cướp ngôi, tàn sát trung lương, diệt tộc đến hàng trăm người. Anh em, vợ con thần cũng bị hại. Chúng sai người truy bắt thần, định xử tử phanh thây. Thần bỏ quân trốn chạy, ẩn náu nơi núi rừng, mong được đến triều đình bày tỏ gan ruột, trải qua nhiều năm mới thấy được ánh sáng. Thần nghĩ Lê Quý Ly vốn là con của cựu Kinh lược sứ Lê Quốc Mao 黎國髦, đời đời thờ họ Trần, nhờ đó mà được vinh sủng. Con hắn là Thương 蒼 cũng được trọng dụng. Thế mà một sớm cướp ngôi, đổi họ thay tên, xưng hiệu riêng, cải niên hiệu, không tuân mệnh triều đình. Trung thần nghĩa sĩ đều đau lòng căm giận, mong khởi binh phạt tội, khôi phục chính thống, trừ gian diệt loạn, lập lại hậu duệ họ Trần. Dù thần có chết cũng không hối tiếc. Xin được noi gương trung nghĩa của Thân Bao Tư, kêu khóc dưới triều, mong Hoàng đế soi xét." Vua Minh nghe tấu cảm động, sai quan cấp cho y phục và lương thực. Đúng lúc đó, nước Lão Qua đưa Trần Thiên Bình 陳天平 đến, tâu rằng: "Thần là Trần Thiên Bình, cháu nội của tiền vương Trần Nhật Huyên 日烜, con của Trần Oảnh 奣, em của Trần Nhật Khuể 日煃. Lê tặc (Quý Ly) đã giết sạch họ Trần, thần vì ở ngoài châu quận nên may mắn thoát nạn. Các bề tôi trung nghĩa cảm khái, suy thần làm chủ để đánh giặc. Đang bàn việc chiêu binh thì quân giặc kéo đến, thần phải vội vàng chạy trốn, ẩn náu nơi núi rừng, sống chết trong gang tấc, mới đến được Lão Qua. Nghe tin Hoàng đế đăng chính đại thống, thần có nơi nương tựa. Trèo đèo lội suối vạn dặm, đến triều đình kêu oan. Họ Trần chỉ còn lại một mình thần, thần và giặc này không đội trời chung. Cúi xin Thánh tri soi xét, sớm phát sáu quân, để thể hiện mệnh trời phạt tội." Vua Minh càng thêm cảm động, sai quan đưa vào phủ đệ nuôi dưỡng. Hồ Hán Thương đang sai sứ sang chúc mừng lễ Chính Đán (Tết Nguyên Đán), vua Minh cho gọi Trần Thiên Bình ra trình diện trước mặt sứ thần. Tất cả đều kinh ngạc, sững sờ, rồi quỳ xuống lạy, có người bật khóc. Bùi Bá Kỳ trách mắng sứ thần bằng những lời lẽ đầy chính nghĩa, khiến họ hoảng sợ, không thể đáp lại. Vua Minh nói với các cận thần: "Cha con Hồ Hán Thương phản nghịch, đến cả quỷ thần cũng không dung tha, vậy mà trong nước từ quan lại đến dân chúng đều đồng lòng che giấu, lừa dối triều đình. Một nước như thế, toàn là tội nhân, trẫm sao có thể dung thứ được?" Năm thứ ba (1405), vua Minh sai Ngự sử Lý Kỳ 李琦 và hành nhân Vương Xu 王樞 mang chiếu sang trách mắng Hồ Hán Thương, yêu cầu phải khai rõ sự thật về việc cướp ngôi và giết vua. Lúc này, châu Ninh Viễn thuộc Vân Nam lại tố cáo Hồ Hán Thương xâm chiếm bảy trại, bắt rể và con gái của họ. Hồ Hán Thương sai quan là Nguyễn Cảnh Chân 阮景真 theo Lý Kỳ và Vương Xu vào triều để tạ tội, miệng nói rằng chưa từng xưng đế hay đổi niên hiệu, xin được đón Trần Thiên Bình về nước, tôn làm chủ, đồng thời xin trả lại đất Lộc Châu và Ninh Viễn. Vua Minh không ngờ đó là gian trá, bèn chấp thuận. Sai hành nhân Nhiếp Thông 聶聰 mang chiếu sang dụ, nói rằng: "Nếu thực sự đón Trần Thiên Bình về, đối đãi như quân vương, thì sẽ phong cho ngươi làm thượng công, ban cho đất lớn." Hồ Hán Thương lại sai Nguyễn Cảnh Chân theo Nhiếp Thông về báo rằng sẽ đón Trần Thiên Bình. Nhiếp Thông hết lời nói tốt cho Hán Thương, vua Minh tin là thật, bèn cho Trần Thiên Bình trở về nước, sai hai phó tướng quân Quảng Tây là Hoàng Trung 黃中 và Lữ Nghị 呂毅 đem 5.000 quân hộ tống. Năm thứ tư (1406), Trần Thiên Bình từ biệt lên đường, vua Minh ban thưởng hậu hĩnh, ra chiếu phong cho Hồ Hán Thương làm Thuận Hóa quận công, được hưởng toàn bộ thuế và quyền cai trị các châu huyện thuộc vùng đó. Tháng Ba, đoàn hộ tống đưa Trần Thiên Bình vào cửa ải Kê Lăng 雞陵關, sắp đến trạm Ghè 芹站 thì Hồ Hán Thương phục binh chặn đánh, giết chết Thiên Bình. Đoàn hộ tống bị đánh bại, phải rút lui. Vua Minh nổi giận, triệu Thành Quốc công Chu Năng 成國公朱能 và các đại thần bàn bạc, quyết định phát binh chinh phạt. Tháng Bảy, sai Chu Năng mang ấn “Chinh Di tướng quân” làm tổng binh, Tây Bình hầu Mộc Thạnh 西平侯沐晟 mang ấn “Chinh Di phó tướng quân” làm tả phó tướng, Tân Thành hầu Trương Phụ 新城侯張輔 làm hữu phó tướng, Phong Thành hầu Lý Bân 豐城侯李彬 và Vân Dương bá Trần Húc 雲陽伯陳旭 làm tả, hữu tham tướng, cùng chỉ huy đại quân nam chinh. Chu Năng đến Long Châu thì lâm bệnh mất, Trương Phụ thay ông chỉ huy quân đội. Quân Minh tiến vào An Nam qua cửa ải Pha Lũy 坡壘關, ban hịch kể tội cha con Hồ Quý Ly hai mươi điều, tuyên cáo với dân rằng sẽ lập lại hậu duệ họ Trần. Đại quân đến trạm Ghè, bắc cầu phao qua sông Xương Giang 昌江 để vượt sông. Tiền quân đến phía bắc sông Phú Lương 富良江, thuộc huyện Gia Lâm, còn Trương Phụ từ trạm Ghè đi đường vòng sang phủ Bắc Giang, huyện Tân Phúc. Quân của Mộc Thạnh và Lý Bân từ Vân Nam đến Bạch Hạc, rồi sai Phiêu kỵ tướng quân Chu Vinh 驃騎將軍朱榮 đến hội quân. Lúc đó, các cánh quân chia đường tiến đánh, đến đâu cũng thắng. Quân Hồ dựng rào dọc sông, đắp thành đất ở ải Đa Bang 多邦隘, thành lũy kéo dài hơn 900 dặm, huy động hơn hai triệu dân vùng bắc sông để phòng thủ. Các cửa sông đều đóng cọc gỗ, kinh đô Đông Đô 東都<ref>Thăng Long</ref> được phòng bị nghiêm ngặt, thủy lục quân xưng là bảy triệu, định dùng chiến thuật cầm cự lâu dài để làm suy yếu quân Minh. Trương Phụ chuyển doanh trại đến cửa sông chợ Cá Chiêu 箇招市江口 thuộc châu Tam Đái 三帶州, đóng chiến thuyền. Vua Minh lo quân giặc kéo dài thời gian để chờ khí hậu độc hại làm suy yếu quân đội, nên ra lệnh cho Trương Phụ phải tiêu diệt giặc trong mùa xuân năm sau. Tháng Chạp, Mộc Thạnh đến bờ bắc sông Thao, đối diện thành Đa Bang. Trương Phụ sai Trần Húc đánh châu Thao Giang, bắc cầu phao đưa quân vượt sông, rồi cùng tiến đến chân thành, đánh hạ được. Thành này là nơi quân giặc đặt nhiều hy vọng, nay bị phá, khiến chúng hoảng loạn. Đại quân theo sông Phú Lương tiến xuống phía nam, đánh thẳng vào Đông Đô. Quân giặc bỏ thành chạy, quân Minh tiến vào chiếm giữ, rồi tiến đến Tây Đô<ref>Thanh Hóa</ref>. Quân giặc đốt phá cung điện, xuống thuyền chạy ra biển. Các châu huyện lần lượt đầu hàng, nơi nào chống cự đều bị đánh bại. Sĩ dân dâng thư kể tội họ Lê (Hồ Quý Ly) mỗi ngày hàng trăm bản. Tháng Giêng năm thứ năm (1407), quân Minh đại phá quân của Hồ Quý Ly tại sông Mộc Hoàn. Vua Minh ban chiếu tìm kiếm hậu duệ họ Trần. Khi đó, có hơn 1.120 bô lão đến doanh trại quân Minh, tâu rằng: "Họ Trần đã bị giặc Lê giết sạch, không còn ai kế tục. An Nam vốn là đất của Trung Quốc, xin được nhập lại vào bản đồ quốc nội, như các quận huyện trong nước." Trương Phụ và các tướng dâng tấu trình việc ấy. Sau đó, quân Minh lại đại phá quân giặc tại sông Phú Lương. Cha con Hồ Quý Ly dùng vài chiếc thuyền trốn chạy. Các cánh quân thủy bộ cùng truy kích, đến huyện Trà Lung thì biết Quý Ly chạy về Nghệ An, liền theo sông Cử Quyết đuổi đến cửa biển Kỳ La thuộc châu Nhật Nam, sai Liễu Thăng 柳升 ra biển truy bắt. Quân giặc liên tiếp thất bại, không còn khả năng tổ chức kháng cự. Tháng Năm, bắt được Hồ Quý Ly và ngụy hoàng thái tử tại núi Cao Vọng, toàn cõi An Nam được bình định. Quần thần xin theo lời các bô lão, thiết lập quận huyện như nội địa Trung Quốc. Ngày mồng một tháng Sáu (năm 1407), vua Minh ban chiếu cáo thiên hạ, đổi tên An Nam 安南 thành Giao Chỉ 交阯, thiết lập ba cơ quan hành chính trung ương: * Cử Đô đốc Thiêm sự Lữ Nghị làm người đứng đầu Đô ty, Hoàng Trung làm phó. * Cử cựu Công bộ Thị lang Trương Hiển Tông và Phúc Kiến Bố chính ty Tả tham chính Vương Bình làm Tả, Hữu Bố chính sứ. * Cử cựu Hà Nam Án sát sứ Nguyễn Hữu Chương làm Án sát sứ. * Bùi Bá Kỳ được bổ làm Hữu tham nghị. * Lại sai Thượng thư Hoàng Phúc kiêm quản cả hai ty Bố chính và Án sát. Thiết lập 15 phủ: Giao Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Tam Giang, Kiến Bình, Tân An, Kiến Xương, Phụng Hóa, Thanh Hóa, Trấn Man, Lạng Sơn, Tân Bình, Diễn Châu, Nghệ An, Thuận Hóa; chia quản 36 châu và 181 huyện. Lại lập thêm 5 châu trực thuộc Bố chính ty: Thái Nguyên, Tuyên Hóa, Gia Hưng, Quy Hóa, Quảng Uy; chia quản 29 huyện. Các nơi hiểm yếu đều đặt vệ sở để kiểm soát. Ra lệnh cho các cơ quan hữu trách: * Các vương tôn họ Trần bị giết đều được truy phong thụy hiệu, lập miếu thờ và mộ phần, mỗi nơi đặt 20 hộ để chăm sóc. Những người trong tông tộc bị hại được truy phong chức tước. * Quân dân chết trận hoặc bị bỏ xác ngoài đồng đều được chôn cất. * Quan lại cũ được giữ nguyên chức, cùng với người mới bổ nhiệm cùng cai trị. * Các chính sách hà khắc của họ Lê (Hồ) đều bị bãi bỏ, những người bị xử oan đều được tha. * Người già cả, đức cao được đối đãi trọng hậu. * Những người cô quả, không nơi nương tựa được lập viện dưỡng tế. * Người có tài đức được khuyến khích vào triều. * Ra chiếu tìm kiếm những người ẩn cư nơi núi rừng, thông hiểu kinh sử, hiền lương chính trực, hiếu đễ cần cù, thông minh chính trực, liêm khiết giỏi giang, thạo việc quan, giỏi toán học, tinh thông binh pháp, có tướng mạo khôi ngô, ăn nói lưu loát, sức khỏe dũng mãnh, giỏi thuật âm dương, y dược phương mạch… đều được mời về triều, tuyển dụng theo lễ. Trương Phụ và các tướng lần lượt tiến cử hơn 9.000 người. Tháng Chín, cha con Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương bị áp giải về triều đình, cùng với các tướng tá giả mạo như Hồ Đỗ đều bị giao cho quan xử lý. Riêng em của Hán Thương là Vệ quốc đại vương Hồ Trừng<ref>Minh sử lầm: Trừng là anh Thương</ref> và con là Hồ Nhuế được tha, cấp phát y phục và lương thực. Tháng Sáu năm thứ sáu (1408), Trương Phụ và các tướng rút quân về kinh, dâng bản đồ đất Giao Chỉ, ghi rõ: chiều đông tây dài 1.760 dặm, chiều nam bắc dài 2.800 dặm. Đã an định dân chúng được hơn 3.120.000 người, bắt được người Man hơn 2.875.000 người, thu được voi, ngựa, trâu bò hơn 235.900 con, lúa gạo 13.600.000 thạch, thuyền bè hơn 8.670 chiếc, và khí giới hơn 2.539.800 món. Vua Minh ban thưởng lớn: Trương Phụ được phong Anh quốc công, Mộc Thạnh được phong Kiềm quốc công, các tướng khác cũng được ban thưởng theo thứ bậc. Lúc đó, các quan lại do triều đình nhà Minh bổ nhiệm đều cố gắng dùng chính sách khoan dung để ổn định vùng đất mới chiếm, nhưng người Man (chỉ người Việt) vì cảm thấy mình không cùng một giống dân nên thường xuyên hoang mang, sợ hãi. Quan cũ của họ Trần là Trần Giản Định, trước đó đã đầu hàng, định được đưa về kinh đô, nhưng lại cùng đồng đảng là Trần Hy Cát bỏ trốn, liên kết với các quan lại giả mạo ở Hóa Châu như Đặng Tất, Nguyễn Súy mưu tính nổi dậy. Trần Giản Định tự xưng đế, đặt niên hiệu Hưng Khánh, quốc hiệu là Đại Việt. Ông ẩn hiện trong vùng núi Nghệ An và Hóa Châu, chờ lúc đại quân nhà Minh rút về thì xuất quân đánh phá các nơi như Bàn Than, Hàm Tử Quan, chặn đường giao thông trọng yếu đi lại giữa phủ Tam Giang và các vùng khác, quấy nhiễu vùng giáp ranh Giao Châu. Các châu huyện như Từ Liêm, Uy Man, Thượng Hồng, Thiên Đường, Ứng Bình, Thạch Thất đều hưởng ứng. Các tướng giữ thành nhiều lần xuất quân đánh dẹp nhưng không thành công. Sự việc được tâu lên, vua Minh sai Mộc Thạnh làm Chinh Di tướng quân, thống lĩnh 40.000 quân từ Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên tiến đánh từ hướng Vân Nam. Đồng thời sai sứ mang chiếu thư chiêu hàng, hứa ban chức tước cha truyền con nối cho ai quy thuận. Quân khởi nghĩa không hưởng ứng. Mộc Thạnh giao chiến tại sông Sinh Quyết 生厥江, bị đại bại. Lữ Nghị và Tham tán Thượng thư Lưu Tuấn đều tử trận. Năm thứ bảy (1409), khi tin thất bại được báo về, triều đình nhà Minh liền điều thêm 47.000 quân từ các vùng Nam Kinh, Chiết Giang, Giang Tây, Phúc Kiến, Hồ Quảng, Quảng Đông và Quảng Tây, giao cho Anh quốc công Trương Phụ tiếp tục chinh phạt. Trương Phụ nhận thấy quân khởi nghĩa dựa vào địa thế sông biển, không thuận lợi cho quân bộ, nên đóng quân tại Tiên Du, Bắc Giang, tập trung đóng chiến thuyền lớn, đồng thời vỗ về những người dân bị giặc cướp phải bỏ trốn. Sau đó, quân Minh liên tiếp đánh phá các doanh trại của quân khởi nghĩa ở Từ Liêm và Quảng Oai. Trinh sát phát hiện đồng đảng của Trần Giản Định là Đặng Cảnh Dị 鄧景異<ref>Minh sử lầm: đây là Nguyễn Cảnh Dị</ref> đang chặn giữ cầu Thái Bình ở bến Lô, châu Nam Sách, Trương Phụ liền tiến quân đến Hàm Tử Quan. Lúc đó, tướng giả mạo Kim Ngô là Nguyễn Thế Mỗi 阮世每 dẫn 20.000 quân đóng trại bên kia sông, dựng đồn trại, bố trí hơn 600 chiến thuyền, đóng cọc ở phía đông nam để phòng thủ. Tháng Tám, gió tây bắc thổi mạnh, Trương Phụ chỉ huy các tướng Trần Húc, Chu Quảng, Dư Nhượng, Phương Chính đồng loạt tiến quân bằng thuyền, pháo tên bắn như mưa, chém hơn 3.000 đầu, bắt sống hơn 200 người, trong đó có tướng giả mạo Giám môn là Phan Đê, thu được hơn 400 chiến thuyền. Sau đó tiến đánh Đặng Cảnh Dị, Cảnh Dị bỏ chạy trước. Quân Minh liền bình định các phủ Giao Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Tân An, Kiến Xương, Trấn Man. Tiếp tục truy kích, đánh bại Đặng Cảnh Dị tại cửa biển Thái Bình, bắt được đồng đảng là Phạm Tất Lật 范必栗. Lúc đó, Nguyễn Súy 阮帥 và các tướng suy tôn Trần Giản Định làm Thái thượng hoàng, rồi lập Trần Quý Khuếch (Khoáng) 陳季擴 làm hoàng đế, đặt niên hiệu là Trùng Quang 重光. Họ sai sứ sang triều đình nhà Minh, tự xưng là cháu của cựu An Nam vương, xin được phong tước. Trương Phụ quát mắng rồi chém chết sứ giả, sau đó dẫn quân theo đường Hoàng Giang, A Giang, cửa biển Đại An đến sông Phúc Thành, rồi chuyển vào cửa biển Thần Đầu, phá sạch các cọc gỗ và lũy trại mà quân khởi nghĩa dựng lên. Chỉ trong hơn mười ngày, quân Minh đã đến Thanh Hóa, các cánh quân thủy bộ đều hội quân đầy đủ. Lúc này, Trần Giản Định đã chạy đến Diễn Châu, Trần Quý Khoáng trốn về Nghệ An, Nguyễn Súy, Đặng Cảnh Dị và các tướng khác cũng tan rã. Quân Minh đóng quân lại, truy bắt tàn quân. Trần Giản Định chạy đến trại Cát Lợi, huyện Mỹ Lương, Trương Phụ và các tướng truy đuổi đến nơi. Giản Định chạy vào núi, quân Minh lùng bắt khắp nơi nhưng không tìm được, bèn vây chặt. Cuối cùng bắt được ông cùng các tướng giả mạo như Trần Hy Cát, Nguyễn Như Lệ, Nguyễn Yến và những người khác. Trước đó, tàn quân của giặc là Nguyễn Sư Cối 阮師檜 tự xưng vương, cùng với tướng giả mạo Kim Ngô thượng tướng quân Đỗ Nguyên Thố và các đồng đảng chiếm đóng xã Nghi Dương, huyện An Lão, châu Đông Triều, có hơn hai vạn quân. Tháng Giêng năm thứ tám (1410), Trương Phụ tiến quân đánh dẹp, chém hơn 4.500 đầu, bắt sống hơn 2.000 người gồm Phạm Chi, Trần Nguyên Khanh, Nguyễn Nhân Trụ và những kẻ khác, đều bị xử trảm, đắp thành gò đầu lâu (kinh quan). Trương Phụ chuẩn bị rút quân, tâu rằng: "Trần Quý Khoáng và các đồng đảng Nguyễn Súy, Hồ Cụ, Đặng (Nguyễn) Cảnh Dị vẫn còn ở Diễn Châu, Nghệ An, đe dọa Thanh Hóa. Đặng Dung đang chặn cửa biển Thần Đầu, Phúc Thành, kiểm soát đường trọng yếu ở Thanh Hóa, xuất hiện ở nhiều nơi thuộc Nghệ An. Nếu toàn bộ quân rút về, e rằng quân của Mộc Thạnh ít người, không đủ sức chống giữ. Xin để lại Đô đốc Giang Hạo, các chỉ huy Du Nhượng, Hoa Anh, Sư Hựu và quân đội để hỗ trợ Mộc Thạnh phòng thủ." Vua Minh đồng ý. Tháng Năm, Mộc Thạnh truy đuổi Trần Quý Khoáng đến sông Ngu Giang, quân giặc bỏ trại chạy. Quân Minh truy đến huyện Cổ Linh, rồi đến cửa biển Hội Triều, Linh Trường, chém hơn 3.000 đầu, bắt được tướng giả mạo Lê Lộng. Trần Quý Khoáng bị dồn ép, dâng biểu xin hàng. Vua Minh biết là giả trá nhưng tạm thời chấp thuận, ra chiếu phong cho làm Giao Chỉ Bố chính sứ, phong Nguyễn Súy, Hồ Cụ, Đặng Cảnh Dị, Đặng Dung làm Đô chỉ huy, Trần Nguyên Tôn làm Hữu tham chính, Phan Kỳ Hựu làm Án sát phó sứ. Chiếu vừa ban ra, vua Minh nghĩ giặc không có ý hối cải, nên năm thứ chín (1411) lại sai Trương Phụ thống lĩnh 24.000 quân hợp với quân của Mộc Thạnh tiến đánh. Quân giặc đóng ở sông Nguyệt Thường, đóng cọc dài hơn 40 trượng, hai bên bờ sông dựng trại dài 2–3 dặm, bố trí hơn 300 chiến thuyền, đặt phục binh ở sườn núi bên phải. Mùa thu, Trương Phụ, Mộc Thạnh chia quân thủy bộ cùng tiến. Nguyễn Súy, Hồ Cụ, Đặng Cảnh Dị, Đặng Dung ra nghênh chiến. Trương Phụ sai Chu Quảng và các tướng nối thuyền phá cọc tiến vào, tự mình dẫn Phương Chính và bộ binh đánh tan phục binh, thủy bộ giáp công. Quân giặc đại bại, các tướng đều tan chạy. Bắt sống các tướng giả mạo Đặng Tông Tích, Lê Đức Di, Nguyễn Trung, Nguyễn Hiên, thu được hơn 120 chiến thuyền. Trương Phụ liền chỉ huy thủy quân truy kích Trần Quý Khoáng, nghe tin các châu huyện Thạch Thất, Phúc An có tướng giả mạo Long Hổ tướng quân Lê Nhị và đồng đảng chặt cầu phao sông Nhuệ, chặn đường tiếp tế phía sau Giao Châu, liền tiến quân đánh dẹp. Lê Nhị và Phạm Khảng ra nghênh chiến, Lê Nhị trúng tên chết. Quân Minh chém tướng giả mạo Nguyễn Đà, bắt sống tướng giả mạo Dương Nhữ Mai, phòng ngự sứ Phùng Hấp, chém hơn 1.500 đầu, truy sát tàn quân gần hết. Phạm Khảng, Đỗ Cá Đán, Đặng Minh, Nguyễn Tư Giam 阮思瑊 đều bị bắt. Năm thứ mười (1412), Trương Phụ chỉ huy Phương Chính và các tướng đánh thủy quân của giặc tại cửa biển Thần Đầu, đại phá quân địch, bắt được các tướng giả mạo như Trần Lỗi, Đặng Như Hí. Nguyễn Súy và các tướng bỏ chạy xa, quân Minh truy đuổi nhưng không kịp. Khi quân Trương Phụ đến vùng Thổ Hoàng, Nghệ An, thì tướng giả mạo Thiếu bảo là Phan Quý Hựu 潘季祐 xin hàng, dẫn theo 17 viên quan giả đến đầu thú. Trương Phụ nhân quyền phong Phan Quý Hựu làm Án sát phó sứ, tạm thời trông coi việc phủ Nghệ An. Sau đó, các tướng giả mạo như Trần Mẫn, Nguyễn Sĩ Cần, Trần Toàn Húc, Trần Toàn Mẫn — giữ các chức Giám quân, Quan sát, An phủ, Chiêu thảo sứ — cũng lần lượt ra hàng. Năm sau (1413), Trương Phụ và Mộc Thạnh hợp quân tiến đến Thuận Châu. Nguyễn Súy và các tướng bố trí phục binh ở sông Ái Tử, chiếm giữ địa thế hiểm trở núi Côn Truyền, bày trận voi để nghênh chiến. Quân Minh đại phá quân giặc, bắt sống 56 người, trong đó có các tướng giả mạo như Phan Kính, Nguyễn Từ, truy kích đến sông Ái Mẫu. Quân giặc tan rã, em của Đặng Dung là Đặng Thiết – tướng giả mạo hầu tước – cùng các tướng Phan Lỗ, Phan Cần đều ra hàng. Mùa xuân năm sau, quân Minh tiến đến Chính Hòa. Tướng giặc là Hồ Đồng đầu hàng, khai rằng tướng giả mạo Đại tướng quân Đặng Cảnh Dị dẫn theo đồng đảng Lê Thiềm và 700 người trốn sang Xiêm Man, đóng tại sách Côn Bồ. Quân Minh liền tiến đến sông La Mông, bỏ ngựa đi bộ, đến nơi thì quân giặc đã trốn. Truy kích đến sách Bồ Nại, nhưng giặc lại bỏ chạy. Quân Minh hành quân suốt đêm hơn 20 dặm, nghe tiếng trống canh, Trương Phụ dẫn Phương Chính và các tướng ngậm hàm thiếc (ra hiệu im lặng), gấp rút tiến quân, đến sáng thì đến sách Bồ Cán. Quân giặc còn đóng trại ở bờ nam sông. Quân Minh vượt sông bao vây, bắn tên trúng vào sườn Đặng Cảnh Dị, bắt sống được. Đặng Dung và em là Đặng Doãn 鈗 bỏ chạy, bị truy bắt, toàn bộ quân lính bị bắt sống. Tướng khác là Chu Quảng 朱廣 truy đuổi Nguyễn Súy đến đất Xiêm Man, lục soát các đèo núi trong vùng, bắt được Nguyễn Súy cùng gia quyến của Trần Quý Khoáng. Nguyễn Súy chạy đến châu Nam Linh, nương nhờ thổ quan Nguyễn Trà Vựng 阮茶彙. Chỉ huy Tiết Tụ 薛聚 truy bắt được Nguyễn Súy và chém chết Nguyễn Trà Vựng. Ban đầu, khi Đặng Dung bị bắt, Trần Quý Khoáng chạy trốn đến núi Trúc Bài ở Nghệ An. Trương Phụ sai Đô chỉ huy Sư Hựu truy kích, Quý Khoáng lại chạy sang đất Lào. Sư Hựu tiếp tục truy đuổi, nước Lào sợ quân Minh xâm phạm lãnh thổ nên xin tự trói Quý Khoáng để dâng nộp. Trương Phụ ra hịch yêu cầu giao nộp, lệnh cho Sư Hựu tiến sâu vào lãnh thổ, đánh chiếm ba cửa ải, đến được Kim Lăng Cá 金陵箇. Quân giặc tan rã, cuối cùng bắt được Trần Quý Khoáng cùng em là Trần Quý Tản 季揝 – người tự xưng là Tể tướng và Hoan Quốc vương. Các tàn quân khác cũng bị tiêu diệt hoàn toàn. Sang năm sau, tháng Hai (1414), Trương Phụ và Mộc Thạnh rút quân về kinh. Tháng Tư, Trương Phụ lại được lệnh mang ấn “Chinh Di tướng quân” ra trấn giữ. Đến năm thứ mười bốn (1416), ông được triệu hồi. Năm sau, phong Phong Thành hầu Lý Bân thay ông trấn nhậm. Người Giao Chỉ vốn hay làm loạn. Khi viên hoạn quan Mã Kỳ 馬騏 đến để thu mua vật phẩm, đã lục soát khắp nơi tìm kiếm châu báu, khiến dân chúng hoang mang. Những kẻ gian ác nhân cơ hội đó kích động, đại quân vừa rút thì lập tức nổi dậy làm loạn. Ở Lục Na có Nguyễn Trinh, Lê Hạch và Phan Cường ở Thuận Châu cùng với các thổ quan như Trần Khả Luận, phán quan Nguyễn Chiêu, thiên hộ Trần Hung, phán quan châu Nam Linh là Nguyễn Nghĩ, tri huyện Tả Bình là Phạm Bá Cao, huyện thừa Vũ Vạn, bách hộ Trần Dĩ Luật đều đồng loạt phản loạn. Tướng Bân đều sai quân đi dẹp, nhưng loạn vẫn chưa dứt. Chẳng bao lâu sau, tuần kiểm Nga Lạc là Lê Lợi 黎利, con trai Xa Tam của cựu tri huyện Tứ Mang là Xa Miên, tri phủ Nghệ An là Phan Liêu 潘僚, thiên hộ châu Nam Linh là Trần Thuận Khánh, bách hộ vệ Nghệ An là Trần Trực Thành cũng nhân cơ hội nổi dậy. Những kẻ gian khác như Phạm Nhuyễn nổi dậy ở Nhạc Lạc, Vũ Cống và Hoàng Như Điển nổi dậy ở Kệ Giang, Nùng Văn Lịch ở Khâu Ôn, Trần Mộc Quả ở Vũ Định, Nguyễn Đặc ở Khoái Châu, Ngô Cự Lai ở Thiện Thệ, Trịnh Công Chứng và Lê Điệt ở Đồng Lợi, Đào Cường ở Thiện Tài, Đinh Tông Lão ở Đại Loan, Phạm Ngọc 范玉 ở An Lão đều tự xưng quan tước, giết quan lại, đốt phá nhà cửa. Có hai người là Dương Cung và Nguyễn Đa tự xưng là vương, phong cho bè đảng như Vi Ngũ, Đàm Hưng Bang, Nguyễn Gia làm thái sư, bình chương, liên kết với các nhóm giặc khác. Trong số đó, Phan Liêu và Phạm Ngọc là hung hăng nhất. Phan Liêu là con của cựu tri phủ Nghệ An là Phan Quý Hựu, kế thừa chức cha, không chịu nổi sự tàn bạo của Mã Kỳ nên nổi loạn. Các thổ quan như chỉ huy Lộ Văn Luật, thiên hộ Trần Đài cũng theo về. Phạm Ngọc vốn là sư ở chùa Đồ Sơn, tự xưng được trời ban kiếm ấn, rồi mạo xưng là La Bình Vương, đặt niên hiệu Vĩnh Ninh, cùng với Phạm Thiện, Ngô Trung, Lê Hành, Đào Thừa làm loạn, phong cho họ làm tướng quốc, tư không, đại tướng quân, tấn công cướp phá thành ấp. Bân phải chia quân đông tây đi dẹp, không lúc nào rảnh tay. Triều đình thấy giặc lâu ngày chưa dẹp yên, năm thứ mười tám sai Vinh Xương bá Trần Trí 榮昌伯陳智 làm tả tham tướng đến giúp. Lại ban chiếu trách Bân rằng: "Giặc phản loạn như Phan Liêu, Lê Lợi, Xa Tam, Nùng Văn Lịch đến nay chưa bắt được, quân khi nào mới nghỉ, dân khi nào mới yên. Nên mở rộng kế sách, sớm tâu dẹp yên." Bân hoảng sợ, thúc giục các tướng truy dẹp. Mùa thu năm sau, giặc đều bị tiêu diệt, chỉ còn Lê Lợi chưa bắt được. Lê Lợi ban đầu làm quan cho Trần Quý Khoáng, giữ chức Kim Ngô tướng quân. Sau đó quy thuận triều đình, được bổ nhiệm làm tuần kiểm huyện Nga Lạc, phủ Thanh Hóa, nhưng vì không được trọng dụng nên ôm hận trong lòng. Khi đại quân rút về, ông ta liền nổi dậy, tự xưng là Bình Định Vương, phong em là Lê Thạch làm tướng quốc, cùng bè đảng như Đoàn Mãng, Phạm Liễu, Phạm Yến đem quân cướp phá. Quan quân tiến đánh, bắt sống được Phạm Yến và những kẻ khác, còn Lê Lợi thì trốn thoát. Một thời gian sau, ông ta chiếm giữ đồn Khả Lam để cướp bóc. Các tướng Phương Chính và Sư Hựu đánh dẹp, bắt được các tướng giả như Nguyễn Cá Lập, còn Lê Lợi lại trốn sang Lào. Khi các tướng Minh trở về (Đông Đô), Lê Lợi lén quay lại, giết tuần kiểm ở Ngọc Cục. Sau đó lại ra cướp phá Lỗi Giang, mỗi lần bị truy kích thì lại trốn thoát. Đến khi các nhóm giặc khác đều bị tiêu diệt, Lê Lợi ẩn náu rất sâu. Tướng Lý Bân tâu rằng: “Lê Lợi trốn sang Lào, nước Lào xin quan quân đừng tiến vào, hứa sẽ tự điều binh bắt Lê Lợi. Nhưng lâu rồi vẫn không thấy hành động, tình hình thật khó đoán.” Vua nghi ngờ Lào che giấu giặc, bèn sai Bân đưa sứ giả của Lào về kinh để tra hỏi. Sau đó, Lào mới trục xuất Lê Lợi. Mùa xuân năm thứ hai mươi (1422), Bân mất, triều đình ra chiếu lệnh cho Trí thay Bân. Năm thứ hai mươi mốt (1423), Trí truy đuổi Lê Lợi đến huyện Xa Lai, châu Ninh Hóa, đánh bại ông ta, nhưng Lê Lợi lại trốn đi xa. Mùa thu năm sau (1424), Trí tâu rằng: "Lê Lợi ban đầu trốn sang Lào, sau bị trục xuất, quay về huyện Khôi. Quan quân tiến đánh, thủ lĩnh của ông ta là Phạm Ngưỡng cùng 1.600 người cả nam lẫn nữ đã đầu hàng. Lê Lợi tuy xin hàng, nguyện đem thuộc hạ quy thuận, nhưng vẫn cố thủ ở Nga Lạc không ra, còn chế tạo binh khí chưa dứt, chắc chắn sẽ lại phải tiến quân." Tấu chương vừa đến, đúng lúc Minh Nhân Tông lên ngôi, ban đại xá thiên hạ, nên ra chiếu bảo Trí phải khéo vỗ về. Nhưng Lê Lợi đã sớm đánh chiếm châu Trà Lung, đánh bại quân của Phương Chính, giết chết chỉ huy Ngũ Vân. Khi Lê Lợi chưa phản loạn, từng có quan hệ tốt với hoạn quan Sơn Thọ 山壽, người trấn giữ vùng đó. Đến lúc này, Sơn Thọ trở về triều, hết lời nói rằng Lê Lợi và mình có lòng tin cậy lẫn nhau, nếu được cử đi khuyên bảo thì chắc chắn Lê Lợi sẽ quy thuận. Vua nói: “Tên giặc này xảo trá, nếu bị hắn lừa thì thế lực của hắn sẽ càng mạnh, khó mà chế ngự.” Sơn Thọ dập đầu thưa: “Nếu thần đi khuyên mà Lê Lợi không chịu về, thần xin chịu muôn lần chết.” Vua gật đầu, sai Sơn Thọ mang chiếu thư phong Lê Lợi làm Tri phủ Thanh Hóa, hết sức an ủi và vỗ về. Chiếu vừa ban xuống, Lê Lợi đã đánh chiếm Thanh Hóa, giết đô chỉ huy Trần Trung. Dù nhận được chiếu thư, Lê Lợi vẫn không có ý hàng phục, chỉ mượn cớ vỗ về quan lại địa phương, giả vờ nói đợi trời thu mát sẽ đến nhận chức, nhưng thực chất vẫn tiếp tục cướp phá không ngừng. Lúc đó, nhà Minh đổi niên hiệu thành Hồng Hy, cho đúc ấn “Chinh Di Phó Tướng quân” để phân phát cho các tướng trấn giữ biên cương. Trí được trao ấn này, lại được lệnh cho An Bình bá Lý An đến hỗ trợ. Nhưng Trí vốn không có tài cầm quân, sợ giặc, nên mượn cớ vỗ về để che mắt triều đình, lại bất hòa với Phương Chính, nên đóng quân không tiến. Giặc ngày càng không kiêng dè, lại vây châu Trà Lung lần nữa, Trí và các tướng chỉ ngồi nhìn không cứu. Qua bảy tháng, trong thành hết lương, tuần án ngự sử tâu lên, nhưng khi tấu đến thì Nhân Tông đã băng hà. Đầu thời Minh Tuyên Tông, có chiếu trách Trí và các quan Tam ty. Nhưng Trí và đồng sự vẫn không để tâm, khiến Trà Lung thất thủ, tri châu Cầm Bành 琴彭 tử trận. Thượng thư phụ trách hai ty Bố Chính là Trần Hiệp 陳洽 tâu rằng: “Lê Lợi tuy xin hàng, nhưng trong lòng vẫn hai lòng. Sau khi chiếm Trà Lung, lại kết thân với thổ quan Ngọc Ma và tù trưởng Lào để cùng làm điều ác. Ban đầu nói đợi trời thu mát, nay thu đã qua, lại viện cớ có oán với tham chính Lương Nhữ Hốt 梁汝笏, xin đổi sang làm tri châu Trà Lung. Đồng thời sai bè đảng như Phan Liêu, Lộ Văn Luật đến các châu Gia Hưng, Quảng Oai chiêu mộ quân lính, thế lực ngày càng lớn mạnh. Xin triều đình lập tức sai tổng binh tiến quân dẹp loạn.” Tấu trình lên, triều đình hạ chiếu nghiêm trách, ra hạn đến mùa xuân năm sau phải bình định được giặc. Trí lúc này mới sợ, cùng Chính tiến quân đến Cả Lưu Quan, nhưng bị đánh bại, rút về Trà Lung lại thua nữa. Phương Chính thì dũng cảm nhưng thiếu mưu lược, Trí thì nhút nhát lại đa nghi, vốn không hợp nhau. Còn Sơn Thọ thì chỉ lo chiêu dụ, giữ quân ở Nghệ An không chịu cứu viện, nên liên tiếp thất bại. Mùa xuân năm đầu niên hiệu Tuyên Đức (1426), sự việc được tâu lên, triều đình lại hạ chiếu nghiêm trách. Lúc đó, thủ lĩnh chính vẫn chưa bị dẹp yên, mà các nhóm giặc nhỏ lại nổi lên như ong vỡ tổ. Ở Mỹ Lưu có Phan Khả Lợi giúp giặc, Chu Trang ở Tuyên Hóa, Hoàng Am ở Thái Nguyên liên kết với giặc Hồng Y ở châu Ninh Viễn, Vân Nam, cướp phá dữ dội. Vua ra chiếu lệnh cho Mộc Thạnh đi dẹp Ninh Viễn, lại điều 15.000 quân từ các vệ ở Tây Nam cùng 3.000 lính nỏ đến Giao Chỉ, đồng thời ra lệnh cho nước Lào không được chứa chấp kẻ phản loạn. Tháng tư, phong Thành Sơn hầu Vương Thông làm Chinh Di tướng quân, Đô đốc Mã Anh làm tham tướng, đem quân đi đánh Lê Lợi. Cách chức Trần Trí và Phương Chính, cho làm sự quan (chức quan phụ trách công việc cụ thể). Vương Thông chưa đến nơi thì giặc đã đánh vào Thanh Hóa. Phương Chính không ra đánh, nhưng đô chỉ huy Vương Diễn xuất quân đánh bại được giặc. Triều đình ban đại xá cho tội nhân ở Giao Chỉ, Lê Lợi và Phan Liêu xin hàng cũng được phong chức. Đồng thời đình chỉ việc thu mua vàng bạc, hương liệu, mong làm dịu tình hình, nhưng giặc vẫn không hối cải. Phương Chính thúc quân tiến đánh, nhưng Lý An cùng các đô chỉ huy Vu Toản, Tạ Phụng, Tiết Tụ, Chu Quảng đều bỏ chạy trước, khiến Chính thất bại, tất cả bị giáng làm sự quan, phải lập công chuộc tội. Chẳng bao lâu sau, Trần Trí sai đô chỉ huy Viên Lượng đánh giặc Lê Thiện ở châu Quảng Oai, định vượt sông thì thổ quan Hà Gia Kháng báo có phục binh. Lượng không nghe, sai chỉ huy Đào Sâm, Tiền Phụ vượt sông, cả hai đều trúng phục kích tử trận, Lượng cũng bị bắt. Lê Thiện sau đó chia quân làm ba đường đánh vào Giao Châu. Đạo đánh Hạ Quan bị đô đốc Trần Tuấn đánh bại, đạo đánh Tiểu Môn ở Biên Giang bị Lý An đánh bại, Lê Thiện phải rút lui trong đêm. Vương Thông nghe tin, cũng chia quân làm ba đường xuất kích. Mã Anh đánh bại giặc ở Thanh Oai, rồi đến Thạch Thất hội quân với Thông, cùng tiến đến Ninh Kiều, Ứng Bình. Quân lính phải hành quân trong bùn lầy, gặp phục binh nên đại bại. Thượng thư Trần Hiệp tử trận, Vương Thông cũng bị thương ở sườn, phải rút lui. Lê Lợi đang ở Nghệ An nghe tin, liền thúc quân đến Thanh Đàm, tấn công Bắc Giang, rồi tiến vây Đông Quan. Vương Thông vốn không có chiến công, chỉ vì cha là Vương Chân chết trận nên được phong tước. Triều đình không biết ông bất tài, lầm lẫn dùng người. Một trận thua khiến ông mất hết tinh thần, hành động rối loạn, không tuân theo mệnh lệnh triều đình, tự ý cắt đất từ Thanh Hóa trở vào nam giao cho giặc, rút hết quan lại, quân dân về giữ Đông Quan. Chỉ có tri châu Thanh Hóa là La Thông không tuân lệnh, Lê Lợi chuyển quân đến đánh nhưng không hạ được. Giặc lại chia một vạn quân vây ải Lưu Quan, nhưng bách hộ Vạn Tông dũng cảm phản kích, khiến chúng phải rút lui. Vua nghe tin Vương Thông thất bại thì vô cùng kinh hãi, liền phong An Viễn hầu Liễu Thăng làm tổng binh, Bảo Định bá Lương Minh làm phó, dẫn quân đi đánh. Lại phong Mộc Thạnh làm Chinh Nam tướng quân, Hưng An bá Từ Hanh và Tân Ninh bá Đàm Trung làm tả, hữu phó tướng quân, từ Vân Nam tiến quân. Hai đạo quân cộng hơn bảy vạn người. Đồng thời ra chiếu lệnh cho Vương Thông cố thủ, chờ Liễu Thăng đến. Năm thứ hai (1427) mùa xuân, Lê Lợi xâm phạm Giao Châu. Vương Thông giao chiến, chém được tên ngụy thái giám Lê Bí cùng các quan Thái úy, Tư đồ, Tư không, thu được hàng vạn thủ cấp. Lợi kinh hoàng bỏ chạy. Các tướng Minh xin thừa thắng truy kích Lợi, nhưng Thông chần chừ ba ngày. Giặc biết Thông nhút nhát, lại lập trại, đào hào, tung quân đi cướp bóc khắp nơi. Tháng ba, triều đình lại phát ba vạn ba nghìn quân, do Liễu Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy đi đánh. Giặc chia quân vây Khâu Ôn, Đô chỉ huy Tôn Tụ cố sức chống cự. Trước đó, giặc cho rằng sông Xương Giang là đường đi lại chính yếu của đại quân nên huy động hơn tám vạn người đến tấn công, Đô chỉ huy Lý Nhậm cùng các tướng liều chết chống trả, giết được rất nhiều giặc. Đến tháng chín, các tướng do dự không cứu viện, giặc sợ đại quân của Thăng đến nên càng đánh gấp. Mùa hạ tháng tư, thành thất thủ, Lý Nhậm tử trận. Lúc ấy giặc vây Giao Châu đã lâu, Thông đóng cửa thành không dám ra, giặc càng khinh thường, gửi thư xin hòa. Thông muốn chấp thuận, triệu tập mọi người bàn bạc. Án sát sứ Dương Thì Tập nói: “Phụng mệnh đánh giặc, nếu lại hòa với chúng rồi tự ý rút quân, thì làm sao tránh được tội?” Thông nổi giận, lớn tiếng quát mắng, mọi người không dám nói gì, bèn đem thư của Lợi tâu lên triều đình. Thăng phụng mệnh đã lâu, đợi các đạo quân hội đủ, đến tháng chín mới đến được ải Lưu Quan. Lợi vì đã có lời hứa với Thông, bèn giả xưng là họ Trần còn hậu duệ, dẫn các thủ lĩnh lớn nhỏ viết thư đến quân của Thăng, xin bãi binh để lập con cháu họ Trần. Thăng không mở thư, sai sứ tâu lên triều đình. Không lâu sau, Thăng tiến quân đến gần đèo Đảo Mã, bị vây hãm và tử trận, quân phía sau cũng lần lượt chết hết. Thông nghe tin, vô cùng sợ hãi, bèn triệu tập đông đủ quân dân quan lại, ra đến bến sông Hạ, lập đàn thề với Lợi, hứa sẽ rút quân. Sau đó sai quan cùng sứ giả của giặc dâng biểu và lễ vật tiến cống. Quân của Mộc Thạnh đến Thủy Vĩ, đang đóng thuyền chuẩn bị tiến quân, nghe tin Thông đã nghị hòa, cũng rút lui, giặc thừa cơ đánh úp, đại bại. Hồng Lô Tự dâng thư của giặc gửi cho Thăng, đại ý nói: “Khi Cao Hoàng Đế (Chu Nguyên Chương) lên ngôi, An Nam là nước đầu tiên triều cống, được đặc biệt ban thưởng, ban cho ngọc ấn. Sau đó, giặc Lê (Hồ Quý Ly) tiếm ngôi và giết vua, Thái Tông Hoàng Đế (Chu Đệ) khởi binh đánh dẹp, tìm kiếm con cháu họ Trần. Nhưng họ Trần vì tránh họa nên đã trốn chạy xa, không thể tìm được. Nay có người cháu còn sót lại tên là Cảo 暠, ẩn náu ở Lão Qua 20 năm, nhân dân bản quốc không quên ân đức của tiên vương, đã tìm được ông ấy. Nếu được chuyển lời lên triều đình, theo chiếu chỉ nối dõi của Thái Tông Hoàng Đế mà trả lại tước vị và đất đai, thì không chỉ là phúc của một dòng họ Trần, mà còn là hạnh phúc của muôn dân nơi man di.” Vua nhận được thư, gật đầu. Hôm sau, biểu của Cảo cũng đến, xưng là “thần Cảo, cháu đích tôn ba đời của tiên vương Phủ 暊<ref>Trần Nghệ Tông</ref>”, lời lẽ tương tự như thư của Lợi. Vua biết rõ là giả mạo, nhưng muốn nhân đó để dừng binh đao, nên chấp thuận. Ban đầu, khi vua mới lên ngôi, từng bàn với Dương Sĩ Kỳ và Dương Vinh về việc Giao Chỉ, đã có ý muốn bỏ. Đến lúc này, vua đưa biểu tấu ra cho các đại thần xem, bày tỏ ý định bãi binh để yên dân. Sĩ Kỳ và Vinh hết lòng tán thành, chỉ có Kiển Nghĩa và Hạ Nguyên Cát là không đồng ý. Nhưng ý vua đã quyết, các đại thần không dám tranh luận. Ngày mồng một tháng mười một, vua sai Lễ bộ Tả thị lang Lý Kỳ và Công bộ Hữu thị lang La Nhữ Kính làm chánh sứ, Hữu thông chính Hoàng Kỵ và Hồng Lô Khanh Từ Vĩnh Đạt làm phó sứ, mang chiếu thư sang vỗ về nhân dân An Nam, đại xá mọi tội lỗi, cùng họ làm lại từ đầu, yêu cầu trình rõ thực trạng con cháu họ Trần để tâu lên. Đồng thời dụ Lợi về ý nghĩa “hưng diệt kế tuyệt” (dựng lại dòng họ đã mất), và truyền cho Thông cùng các quan tam ti triệt thoái toàn bộ quân dân về phương Bắc. Chiếu chỉ chưa đến, Vương Thông đã bỏ Giao Chỉ, theo đường bộ trở về Quảng Tây. Trung quan Sơn Thọ, Mã Kỳ cùng các quan tam ti theo đường thủy trở về Khâm Châu. Tổng số người trở về chỉ còn tám vạn sáu nghìn (86.000), số bị giặc giết hoặc bị bắt giữ không thể đếm xuể. Thiên hạ đều oán trách Thông vì bỏ đất khiến dân chịu tai họa, nhưng vua vẫn không nổi giận. Mùa hạ năm thứ ba, Thông và các người khác về đến kinh đô, các quan văn võ đồng lòng dâng sớ luận tội họ. Triều đình mở cuộc thẩm vấn, tất cả đều nhận tội. Sau đó, cùng với Trần Trí, Mã Anh, Phương Chính, Sơn Thọ, Mã Kỳ và Bố chánh sứ Dịch Khiêm, đều bị kết án tử hình, giam vào ngục, tịch thu gia sản. Nhưng vua cuối cùng không xử tử, chỉ giam lâu dài chờ quyết định. Mã Kỳ tàn ác, gây biến loạn, tội nặng nhất; còn Dặc Khiêm thực sự vô tội, nhưng lại bị xử cùng một án, khiến dư luận thời đó bất bình. Các đại thần lại dâng sớ buộc tội Mộc Thạnh, Từ Hanh, Đàm Trung vì chậm trễ, làm mất quân, làm nhục quốc thể, nhưng vua không truy cứu. Khi Mã Kỳ và các sứ thần trở về triều, Lợi sai sứ dâng biểu tạ ơn, giả nói rằng Cảo đã mất vào tháng Giêng, họ Trần đã tuyệt tự, người trong nước suy tôn Lợi giữ nước, kính cẩn chờ lệnh triều đình. Vua cũng biết đó là lời dối trá, không muốn lập tức phong tước, lại sai Nhữ Kính và Vĩnh Đạt đến dụ Lợi cùng thuộc hạ, lệnh họ tìm kiếm hậu duệ họ Trần, đồng thời phải trả lại toàn bộ quan lại, dân chúng và gia quyến đã bị bắt giữ. Mùa xuân năm sau (1429), Nhữ Kính và các sứ thần trở về, Lợi lại nói họ Trần không còn ai, xin triều đình phong người khác. Nhân đó, Lợi dâng cống sản vật và một tượng người bằng vàng thay cho thân mình. Lại nói: “Thần có một đứa con gái chín tuổi, gặp loạn mà thất lạc, sau biết Mã Kỳ mang về làm cung nữ, thần không nén được tình cha con, mạo muội xin lại.” Vua biết rõ rằng nếu họ Trần còn người, Lợi cũng sẽ không nói ra, nhưng vì việc phong tước cho Lợi chưa có danh nghĩa chính đáng, nên lại sai Mã Kỳ và Nhữ Kính tiếp tục dụ bảo tìm kiếm, đồng thời báo rằng con gái Lợi đã chết vì bệnh. Mùa xuân năm thứ năm (1430), Kỳ và các sứ thần trở về, Lợi sai sứ dâng cống vàng bạc, đồ quý và sản vật địa phương, lại dùng lời lẽ hoa mỹ dâng tấu, đồng thời trình tấu của các thủ lĩnh và bô lão xin cho Lợi tạm nắm quyền quốc chính. Khi sứ thần trở về, vua lại truyền dụ yêu cầu tiếp tục tìm kiếm hậu duệ họ Trần và trả người Trung Quốc về nước, nhưng lời lẽ không còn cứng rắn như trước. Mùa hạ năm sau (1431), Lợi lại sai sứ sang tạ tội, dùng lời lẽ khéo léo để đối đáp về hai việc ấy, lại dâng tấu của các thủ lĩnh và bô lão, tiếp tục xin phong cho Lợi. Vua bèn chấp thuận, sai Lễ bộ Hữu thị lang Chương Sướng và Hữu thông chính Từ Kỳ mang chiếu thư và ấn tín, phong cho Lợi tạm quyền cai quản quốc sự An Nam. Lợi sai sứ mang biểu cùng vàng bạc, đồ quý theo Chương Sướng và các sứ thần vào triều cống. Tháng hai năm thứ bảy (1432), sứ thần đến kinh sư, khi trở về, Lợi và các sứ thần đều được ban thưởng. Tháng tám năm sau lại sang triều cống, vua sai Binh bộ Thị lang Từ Kỳ cùng đi, dụ bảo đạo lý thuận theo trời, giữ yên dân. Năm ấy, Lợi qua đời.<ref>Thực tế Lê Lợi mất năm 1433</ref> Tuy Lợi đã nhận chiếu mệnh của triều đình, nhưng ở trong nước vẫn tự xưng là hoàng đế, đặt niên hiệu là “Thuận Thiên”, lập hai kinh đô Đông và Tây, chia nước làm 13 đạo: gồm Sơn Nam, Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương, An Bang, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Minh Quang, Lạng Hóa, Thanh Hoa, Nghệ An, Thuận Hóa, Quảng Nam. Mỗi đạo đều đặt cơ quan Thừa chính ty, Hiến sát ty và Tổng binh ty, mô phỏng theo ba ty của Trung Quốc. Đông Đô đặt tại phủ Giao Châu, Tây Đô đặt tại phủ Thanh Hoa. Lập đủ trăm quan, mở trường học, lấy hai khoa Kinh nghĩa và Thơ phú để tuyển chọn nhân tài, phong hóa rực rỡ mang đậm nét văn minh Hoa Hạ. Lợi tiếm xưng ngôi vị được sáu năm, sau tự đặt thụy hiệu là Thái Tổ. Con là Lân 麟 kế vị, Lân còn có tên là Long 龍<ref>Lê Thái Tông tên húy là Lê Nguyên Long 黎元龍</ref>. Từ đó, các quân trưởng của nước này đều có hai tên, lấy một tên dùng để tấu trình với triều đình nhà Minh<ref>Thực tế từ đời nhà Trần các vua Trần đã lấy hai tên, một để dùng trong nước và một để ngoại giao.</ref>, việc cống nạp vẫn đều đặn như lệ thường. Lân sai sứ báo tang, đồng thời lệnh cho Thị lang Chương Sưởng và Hành nhân Hầu Tiến thay mặt điều hành quốc sự. Năm sau lại sai sứ vào triều cống để tạ ơn. Năm Chính Thống nguyên niên (1436), tháng Tư, do Tuyên Tông băng hà, [An Nam] sai sứ vào triều dâng hương. Lại vì Anh Tông lên ngôi, tôn hiệu Thái hoàng thái hậu và Hoàng thái hậu được xác lập, cũng sai sứ dâng biểu chúc mừng và tiến cống sản vật địa phương. Tháng Nhuận Sáu lại tiếp tục tiến cống. Vua (nhà Minh) thấy họ Trần đã tuyệt tự, muốn lập Lân chính vị, nên hạ lệnh bàn nghị trong triều, mọi người đều cho là hợp lẽ. Bèn sai Hữu Thị lang bộ Binh là Lý Úc và Tả Thông chính là Nại Hanh mang sắc thư và ấn phong, sắc phong Lân làm An Nam quốc vương. Năm sau (1437), Lân sai sứ vào triều để tạ ơn. Lúc đó, thổ quan châu Tư Lãng ở An Nam đánh chiếm hai châu An Bình và Tư Lăng thuộc Quảng Tây, chiếm giữ hai động và hai mươi mốt thôn. Vua (nhà Minh) sai Cấp sự trung là Thang Nại và Hành nhân Cao Dần mang sắc thư lệnh cho Lân trả lại đất đã chiếm. Lân tuân mệnh, sai sứ tạ tội, đồng thời tố cáo thổ quan An Bình và Tư Lăng xâm lược Tư Lãng. Vua lệnh cho quan trấn thủ nghiêm khắc răn đe. Năm thứ bảy (1442), sứ thần An Nam trở về, vua ban cho mũ da, áo bào dệt kim tuyến để ban thưởng cho quốc vương của họ. Năm đó, Lân qua đời, trộm truy tôn thụy hiệu là Thái Tông. Đổi niên hiệu hai lần: năm Thiệu Bình thứ sáu và năm Đại Bảo thứ ba. Con là Tuấn 濬 kế vị, còn có tên là Cơ Long 基隆<ref>Lê Nhân Tông, húy Lê Bang Cơ 黎邦基</ref>, sai sứ sang báo tang (về cái chết của cha). Triều đình nhà Minh sai Quang Lộc Thiếu Khanh Tống Kiệt và Binh Khoa Đô Cấp Sự Trung Tiết Khiêm mang tiết việt đến sách phong làm quốc vương. Tuấn 濬 sai tướng xâm lược nước Chiêm Thành, chiếm cảng Tân Châu 新州港<ref>Bình Định</ref>, bắt vua của họ là Ma Ha Bôn Cai 摩訶賁該 đem về. Hoàng đế Minh lập vua mới là Ma Ha Quý Lai 摩訶貴來, ra lệnh cho sứ giả An Nam khuyên Tuấn 濬 trả lại vua cũ. Tuấn 濬 không tuân chỉ dụ, tiếp tục xâm lược, bắt dân hơn ba vạn ba nghìn người, nước Chiêm Thành dâng biểu kiện cáo. Năm Cảnh Thái nguyên niên (1450), triều đình nhà Minh ban chiếu răn dạy Tuấn, nhưng Tuấn vẫn không tuân theo. Năm thứ tư (1453), Tuấn sai sứ sang chúc mừng việc lập Hoàng Thái tử. Năm Thiên Thuận nguyên niên (1457), Tuấn lại sai sứ sang triều cống, xin ban áo mũ vua (cửu chương cửu trượng) như lệ của Triều Tiên, nhưng không được chấp thuận. Sứ giả của Tuấn xin đổi sản vật lấy sách vở, thuốc men, thì được chấp thuận. Năm thứ hai (1458), Tuấn sai sứ chúc mừng Anh Tông phục vị. Đến tháng mười năm thứ ba (1459), người anh cùng cha khác mẹ là Lạng Sơn vương tên là Tông 琮<ref>Lê Nghi Dân</ref> giết Tuấn để tự lập làm vua. Tuấn từng đặt hai niên hiệu: Đại Lợi năm thứ 11, và Diên Ninh năm thứ 6. Sau khi mất, Tuấn được truy tôn là Nhân Tông. Tông 琮, còn có tên là Nghi Dân 宜民, cướp ngôi được chín tháng, đổi niên hiệu là Thiên Dữ, nhưng bị người trong nước giết chết. Nghi Dân bị giáng làm Lệ Đức hầu 厲德侯. Sau đó, em trai của Tuấn là Hạo 灝 được lập kế vị. Hạo còn có tên là Tư Thành<ref>Lê Thánh Tông, húy Lê Tư Thành 黎思誠</ref>. Ban đầu, Tông giết Tuấn rồi tâu lên triều đình rằng Tuấn chết đuối khi đi chơi hồ. Triều đình nhà Minh không biết sự thật, định sai quan đến viếng. Tông sợ sứ giả đến sẽ phát hiện chân tướng, nên nói rằng theo lễ thì người chết đuối không được viếng, không dám làm phiền thiên sứ, nên hoàng đế bèn thôi. Sứ giả nói Tuấn không có con, xin phong Tông làm vua. Triều đình sai Thông chính tham nghị Doãn Mân và Lễ khoa cấp sự trung Vương Dự đến phong. Nhưng chưa vào đến biên giới thì nghe tin Tông đã bị giết, Hạo lên ngôi, nên quay về. Hạo nhiều lần sai sứ sang triều cống, xin được phong vương. Các quan lễ nghi ngờ là có giả dối, xin lệnh cho quan trấn thủ Quảng Tây xác minh rồi tâu lên, được chấp thuận. Sứ giả tâu rằng: “Theo lễ, khi sống thì được phong, khi chết thì được tế. Nay cái chết của Tuấn đã rõ, xin ban lễ tế.” Vậy nên triều đình sai hành nhân đến tế. Đến tháng hai năm thứ sáu (1462), triều đình sai Thị độc học sĩ Tiền Phổ và Cấp sự trung Vương Dự đến phong Hạo làm quốc vương. Khi Minh Hiến Tông lên ngôi, sai Thượng bảo khanh Lăng Tín và Hành nhân Thiệu Chấn ban tặng gấm vóc và tiền tài cho vua (Hạo) và hoàng hậu. Hạo sai sứ sang triều cống, nhân đó xin ban mũ miện (mũ vua), nhưng không được chấp thuận, chỉ được ban mũ da, áo mũ thường và đai sừng tê. Tháng tám năm Thành Hóa nguyên niên (1465), do Anh Tông băng hà, triều đình sai sứ sang dâng hương, lệnh cho Hạo đến lăng Dụ làm lễ. Hạo là người kiêu hùng, tự cho nước mình giàu có, binh mạnh, thường tự ý làm lớn. Năm thứ tư (1468), Hạo xâm chiếm vùng Bằng Tường thuộc Quảng Tây. Vua Minh nghe tin, liền ra lệnh cho quan trấn thủ phải cẩn thận phòng bị. Năm thứ bảy (1471), Hạo đánh chiếm Chiêm Thành, bắt được vua là Bàn La Trà Toàn 盤羅茶全; hơn ba năm sau lại đánh tiếp, bắt vua Bàn La Trà Duyệt 盤羅茶悅, rồi đổi tên nước ấy (Chiêm Thành) thành Giao Nam Châu 交南州, đặt quân trấn giữ. Đường triều cống của An Nam vốn đi qua Quảng Tây. Lúc đó, viên thái giám trấn thủ Vân Nam là Tiền Năng tham lam, sai chỉ huy Quách Cảnh mang chiếu thư đến lấy hàng hóa. Hạo vốn có ý muốn dò xét Vân Nam, bèn lấy cớ áp giải tội nhân ở Long Châu (Quảng Tây) làm lý do, theo Quách Cảnh mượn đường Vân Nam để vào kinh, yêu cầu hơn sáu trăm người phu, lại còn phát binh đi theo sau, khiến Vân Nam náo loạn. Bộ Binh tâu rằng Vân Nam không phải là đường cống, tội nhân ở Long Châu nên giải về Quảng Tây, không cần đưa đến kinh. Vì vậy triều đình ra lệnh cho quan trấn thủ gửi công văn răn bảo, đồng thời tăng cường phòng bị biên giới. Sau khi chiếm được Bằng Tường và diệt Chiêm Thành, Hạo lại xâm lấn Quảng Đông ở các nơi Quỳnh Châu 瓊 và Lôi Châu 雷, cướp bóc hồ ngọc trai. Các vùng Long Châu, Hữu Bình thuộc Quảng Tây, và Lâm An, Quảng Nam, Trấn An thuộc Vân Nam cũng nhiều lần báo động. Triều đình ra chiếu hỏi tội, nhưng Hạo thường dùng lời lẽ quanh co để đối đáp. Triều đình trung ương chủ trương nhân nhượng, dù nhiều lần ban chiếu dụ nhưng không lời nào nghiêm khắc. Hạo càng thêm khinh nhờn, không chút sợ sệt, nói rằng: “Vua Chiêm Thành là Bàn La Trà Toàn xâm phạm đường Hóa Châu, bị em là Bàn La Trà Duyệt giết rồi tự lập. Khi sắp được phong thì lại bị con là Trà Chất Đài 茶質苔 giết. Nước ấy tự loạn, không phải lỗi của thần Hạo.” Triều đình biết rõ là dối trá nhưng không thể truy cứu, chỉ khuyên nên trả lại đất đai. Hạo dâng tấu rằng: “Chiêm Thành không phải là vùng đất màu mỡ, dân ít của tích trữ, đồng ruộng không có dâu tằm, núi không có vàng ngọc, biển không có cá muối, chỉ sản xuất ngà voi, sừng tê, gỗ mun, trầm hương. Chiếm được đất thì không thể ở, được dân thì không thể dùng, được của thì không thể làm giàu. Vì vậy thần không hề xâm chiếm Chiêm Thành. Nay hoàng đế ra chiếu bảo thần trả lại đất, xin cử sứ thần đến phân định ranh giới, để hai nước được yên ổn biên cương, đó là điều thần vô cùng mong muốn.” Lúc đó, Chiêm Thành đã bị chiếm từ lâu, mà lời lẽ của Hạo lại dối trá như vậy. Trước kia, sứ thần An Nam khi vào triều cống thường mang theo nhiều hàng hóa riêng, đi qua Bằng Tường và Long Châu, thiếu người vận chuyển nên thường gây ra xung đột. Nhân dịp cử sứ sang chúc mừng việc lập Hoàng Thái tử, triều đình ban chiếu nghiêm cấm việc này. Mùa đông năm thứ 15 (1479), Hạo sai hơn 800 binh lính vượt biên giới Mông Tự (thuộc Vân Nam), lấy cớ bắt giặc, tự ý dựng trại, xây nhà ở lại. Quan trấn thủ kiên quyết ngăn cản, mới chịu rút lui. Sau khi phá được Chiêm Thành, Hạo càng thêm tham vọng, đích thân chỉ huy 9 vạn quân, mở ba đường núi, đánh phá Ai Lao 哀牢, xâm lấn Lão Qua 老撾, lại đại phá nước này, giết chết ba cha con quan Tuyên úy là Đao Bản Nhã 刀板雅, Lan 蘭 và Chưởng 掌. Người con út là Phạ Nhã Trại 怕雅賽 chạy sang Bát Bách (tức Lan Na) mới thoát. Hạo lại tích trữ lương thực, luyện binh, ban chiếu giả cho Xa Lý 車里 (Che-li, tức Chiang Rai), triệu binh cùng đánh Bát Bách. Quân sĩ chết đột ngột hàng ngàn người, ai cũng nói là bị sét đánh. Bát Bách chặn đường rút lui, tập kích giết hơn một vạn người, Hạo mới chịu rút quân. Vua Minh hạ lệnh bàn nghị, chỉ yêu cầu Bố chánh sứ Quảng Tây ra công văn bảo Hạo rút quân, còn các quan trấn thủ Vân Nam và Lưỡng Quảng thì tăng cường phòng bị biên giới. Sau đó, Hạo lại nói rằng mình không xâm phạm Lào, và cũng không biết biên giới Bát Bách ở đâu, lời lẽ rất dối trá. Vua lại phải an ủi khuyên bảo, nhưng ông vẫn không tuân mệnh. Mùa thu năm thứ 17 (1481), Malacca 滿剌加 cũng tố cáo bị xâm lấn. Vua Minh sai sứ đến khuyên bảo giữ hòa hiếu và bảo vệ quốc gia. Không lâu sau, sứ thần An Nam vào triều cống, xin được ban mũ áo như Xiêm La và Java 爪哇, vua đồng ý nhưng không lấy đó làm lệ. Khi Hiếu Tông lên ngôi, sai Thị độc Lưu Tiễn ban chiếu dụ cho nước An Nam. Sứ thần của họ đến triều cống, vì đang có quốc tang lớn nên được miễn không phải vào yết kiến. Năm Hồng Trị thứ ba (1490), lúc đó vua Chiêm Thành là Cổ Lai 古來 nhờ vào sức mạnh của triều đình nhà Minh mà được phục quốc, lại tiếp tục tố cáo An Nam xâm lấn. Thượng thư Bộ Binh là Mã Văn Thăng triệu sứ thần An Nam đến và nói: “Về bảo vua các ngươi, mỗi nước nên giữ lấy bờ cõi để hưởng thái bình. Nếu không, một khi triều đình nổi giận, thiên binh áp sát biên giới, như chuyện thời Vĩnh Lạc, vua các ngươi liệu có hối hận chăng?” Từ đó, An Nam bắt đầu có phần e dè. Năm Hồng Trị thứ 10 (1497), Hạo qua đời, được truy tôn thụy hiệu là Thánh Tông. Ông từng đặt hai niên hiệu: Quang Thuận năm thứ 10 và Hồng Đức năm thứ 28. Con là Huy 暉 kế vị, tên khác là Tranh 鏳<ref>Lê Hiến Tông, húy Lê Tranh</ref>, sai sứ sang báo tang. Triều đình cử hành nhân Từ Dục đến tế. Sau đó ban cho Huy mũ da, áo mũ và đai sừng tê bằng vàng. Sứ thần của Huy nói rằng: “Quốc vương được phong mà lễ phục lại không khác gì với quan lại, xin được đổi lễ ban.” Quan Lễ bộ tâu rằng: “An Nam tuy xưng vương, nhưng thực chất là thần dân của Trung Quốc. Vua mới lên ngôi, tất phải ban mũ da và áo mũ để giữ thể diện của một nước, đồng thời ban thêm thường phục phẩm cấp nhất để không quên nghĩa vụ thần phục Trung Quốc. Nay lời xin ấy làm rối loạn quy chế tổ tiên, không thể chấp thuận. Tuy nhiên, đây không phải lỗi của sứ thần, mà là do người thông dịch dẫn dắt sai trái, nên cần xử phạt.” Vua đặc biệt tha cho. Năm thứ 17 (1504), Huy qua đời, được truy tôn là Hiến Tông, đặt niên hiệu là Cảnh Thống. Con là Khiên 𣽲 kế vị, tên khác là Kính Phủ 敬甫<ref>Lê Túc Tông, húy Lê Thuần 黎㵮</ref>, nhưng chỉ bảy tháng sau thì mất, được truy tôn là Túc Tông. Em là Nghị 誼 kế vị, tên khác là Tuyền 璿<ref>Lê Uy Mục</ref>. Khi Vũ Tông lên ngôi, sai Tu soạn Luân Văn Tự và Cấp sự trung Trương Hoành đến ban chiếu dụ cho nước ấy. Nghị cũng sai sứ báo tang, lệnh cho quan lại làm lễ tế như thường lệ. Năm Chính Đức thứ nhất (1506), Nghị được sắc phong làm vương. Nghị sủng ái và trọng dụng phe cánh bên ngoại là hai anh em Nguyễn Chủng và Nguyễn Bá Thắng, để họ tha hồ làm điều tàn ác, giết hại tông thân, đầu độc cả bà nội. Nguyễn Chủng và đồng bọn ỷ thế được sủng ái mà chiếm quyền, đến năm thứ tư (1509) thì ép Nghị tự sát, lập em là Bá Thắng lên thay, giáng Nghị làm Lệ Mẫn vương. Người trong nước như Lê Quảng và những người khác nổi dậy giết bọn chúng, lập cháu nội của Hạo là Trừu (Trửu, Chử) 晭<ref>Lê Tương Dực, húy Lê Oanh</ref> lên ngôi, đổi thụy hiệu của Nghị thành Uy Mục Đế. Nghị ở ngôi được bốn năm, đổi niên hiệu là Đoan Khánh. Trừu, tên khác là Oanh 瀅, đến năm thứ bảy (1512) thì được phong vương, nhưng lại làm nhiều điều bất nghĩa. Năm thứ mười một (1516), quan tế lễ ở xã đường là Trần Cảo 陳暠 cùng hai con là Trần Bỉnh và Trần Thăng làm loạn, giết Trửu rồi tự lập làm vua. Cảo giả xưng là hậu duệ họ Trần, tự xưng là Đại Ngu Hoàng đế 大虞皇帝, đổi niên hiệu là Ứng Thiên, giáng Chử làm Linh Ẩn vương. Một đại thần của Trửu là đô lực sĩ Mạc Đăng Dung 莫登庸 ban đầu theo Cảo, sau cùng với đại thần họ Lê là Nguyễn Hoằng Dụ 阮弘裕 khởi binh đánh Cảo. Cảo thua chạy, Bỉnh và đồng đảng là Trần Thúy bị bắt. Cảo và Thăng chạy về hướng Lạng Sơn, chiếm giữ ba phủ Trường Ninh, Thái Nguyên và Thanh Tiết để tự bảo vệ. Mạc Đăng Dung và các tướng lập con của Hạo 灝<ref>Minh sử lầm: đây là Lê Sùng 黎漴, cha của Lê Chiêu Tông</ref> là Huệ 譓<ref>Lê Chiêu Tông, húy Lê Y 黎椅</ref> (cháu của Trửu) lên ngôi, đổi thụy hiệu của Trửu thành Tương Dực Đế. Trửu ở ngôi bảy năm, niên hiệu là Hồng Thuận. Huệ định xin phong vương, nhưng vì loạn lạc trong nước nên không thành. Mạc Đăng Dung có công, được phong làm Vũ Xuyên bá, nắm toàn bộ thủy lục quân đội. Sau khi nắm binh quyền, ông ngấm ngầm nuôi ý đồ khác. Một đại thần họ Lê là Trịnh Tuy 鄭綏 cho rằng Huệ chỉ là vua bù nhìn, nên lập người trong họ là Dậu Bảng 酉榜 lên ngôi, rồi phát binh đánh kinh thành. Huệ bỏ chạy, Mạc Đăng Dung đánh bại quân của Tuy, bắt và giết Dậu Bảng, lại càng ỷ công mà chuyên quyền. Sau đó, ông ép mẹ của Huệ phải gả cho mình, đón Huệ về, tự xưng là Thái phó Nhân quốc công. Năm thứ mười sáu (1521), ông dẫn quân đánh Trần Cảo, Cảo thua chạy rồi chết. Năm Gia Tĩnh thứ nhất (1522), Mạc Đăng Dung tự xưng là An Hưng vương, âm mưu giết Lê Huệ. Mẹ của Huệ biết được, báo tin, nên Huệ cùng cận thần là Đỗ Ôn Nhuận bí mật trốn thoát, ẩn náu ở Thanh Hoa. Mạc Đăng Dung lập em cùng cha khác mẹ của Huệ là Khoáng 懬<ref>Lê Cung Hoàng, húy Xuân và Khoáng</ref> lên ngôi, rồi dời đô về phủ Trường Khánh ở Hải Đông. Khi Thế Tông nhà Minh lên ngôi, sai Biên tu Tôn Thừa Ân và Cấp sự trung Vu Đôn sang ban chiếu dụ cho nước ấy. Khi đến Long Châu, nghe tin nước này đại loạn, đường sá không thông, nên phải quay về. Mùa hạ năm thứ tư (1525), Lê Huệ sai sứ đi đường vòng sang triều cống và xin phong vương, nhưng bị Mạc Đăng Dung ngăn cản. Mùa xuân năm sau (1526), Đăng Dung hối lộ phán quan Khâm Châu là Đường Thanh để xin phong cho Khoáng. Tổng đốc Trương Đằng bắt Đường Thanh, Thanh chết trong ngục. Năm thứ sáu (1527), Mạc Đăng Dung sai phe cánh là Phạm Gia Mô giả làm chiếu nhường ngôi của Khoáng để cướp ngôi, đổi niên hiệu là Minh Đức, lập con là Mạc Phương Doanh 方瀛<ref>Mạc Đăng Doanh</ref> làm Hoàng thái tử. Sau đó, ông đầu độc giết Khoáng, truy tôn là Cung Hoàng đế. Năm sau (1528), ông sai sứ sang triều cống, nhưng khi đến thành Lạng Sơn thì bị tấn công, phải quay về. Năm thứ chín (1530), Mạc Đăng Dung nhường ngôi cho Phương Doanh, tự xưng là Thái thượng hoàng, dời đến Đô Trai và Hải Dương, làm hậu thuẫn cho Phương Doanh. Ông soạn ra 59 điều đại cáo, ban bố trong nước. Phương Doanh đổi niên hiệu là Đại Chính. Tháng 9 năm đó, Lê Huệ mất ở Thanh Hoa, nhà Lê diệt vong. Mùa đông năm thứ mười lăm (1536), hoàng tử ra đời<ref>Chu Tái Duệ 朱載壡</ref>, triều đình định ban chiếu cho An Nam. Lễ quan Hạ Ngôn tâu rằng: “An Nam đã không triều cống suốt hai mươi năm. Quan trấn thủ Lưỡng Quảng cho rằng Lê Huệ và Lê Khoáng đều không phải là dòng chính đáng kế vị của Lê Trửu, còn Mạc Đăng Dung và Trần Cảo đều là gian thần tiếm quyền ở nước ấy. Nên sai quan đến điều tra, truy tìm tên vua tiếm ngôi để trị tội. Hơn nữa, trước đây sứ thần từng bị cản trở vì đường sá không thông, nay nên tạm hoãn việc sai sứ.” Hoàng đế cho rằng An Nam phản nghịch đã rõ ràng, cần nhanh chóng sai quan đến điều tra, liền lệnh cho Hạ Ngôn cùng Bộ Binh bàn việc chinh phạt. Hạ Ngôn và Thượng thư Bộ Binh là Trương Toản cùng tâu rằng: “Gian thần tiếm ngôi, cướp nước, không chịu triều cống, nhất định phải đánh dẹp.” Họ xin trước hết sai hai quan Cẩm y đến xác minh thực hư, đồng thời lệnh cho quan trấn thủ Lưỡng Quảng và Vân Nam chuẩn bị binh lương, chờ ngày xuất quân. Vua đồng ý. Liền sai Thiên hộ Đào Phụng Nghi và Trịnh Tỉ chia đường đến Quảng Tây và Vân Nam, truy xét tên vua tiếm ngôi, đồng thời lệnh cho các quan trấn thủ Tứ Xuyên, Quý Châu, Hồ Quảng, Phúc Kiến, Giang Tây chuẩn bị binh lương, chờ điều động. Thứ sử Bộ Hộ là Đường Tự dâng sớ, trình bày bảy điều không nên dùng binh, chi tiết có trong truyện riêng. Cuối sớ ông nói: “Tuy An Nam loạn lạc, nhưng vẫn nhiều lần dâng biểu, dâng cống phẩm, xin được vào cửa quan. Quan trấn thủ vì thấy tên không khớp nên từ chối. Như vậy là họ muốn triều cống mà không được, chứ không phải cố ý không cống.” Tấu chương được chuyển sang Bộ Binh, bộ này cũng đồng tình, xin đợi quan điều tra trở về rồi bàn tiếp. Năm thứ mười sáu (1537), Lê Ninh 黎寧<ref>Lê Trang Tông</ref> nước An Nam sai người trong nước là Trịnh Duy Liêu 鄭惟僚 cùng đoàn sứ đến kinh đô, trình bày rõ việc Mạc Đăng Dung tiếm ngôi và giết vua. Họ nói: “Ninh chính là con của Lê Huệ. Sau khi Huệ mất, người trong nước lập Ninh làm Thế tôn, tạm nắm quyền quốc sự. Nhiều lần gửi thư cho các quan biên giới để cầu cứu, nhưng đều bị Đăng Dung chặn giết. Xin triều đình khởi binh hỏi tội, trừ kẻ phản quốc.” Lúc đó, Nghiêm Tung đang nắm quyền ở Lễ bộ, cho rằng lời họ chưa thể tin hoàn toàn, xin giữ lại chờ quan điều tra trở về rồi mới quyết, và được chấp thuận. Sau đó, triều đình triệu Đào Phụng Nghi và các quan điều tra trở về, lệnh cho Lễ bộ và Binh bộ cùng các đại thần bàn bạc, liệt kê mười tội lớn của Mạc Đăng Dung, xin hoàng đế quyết đoán, định ngày xuất quân. Liền triệu Hữu đô ngự sử Mao Bá Ôn đang ở nhà ra giúp quân vụ, sai Hộ bộ Thị lang Hồ Liễn và Cao Công Thiệu đi trước đến Vân Nam, Quý Châu và Lưỡng Quảng điều phối quân lương. Cử Đô đốc Thiêm sự Giang Hoằng và Ngưu Hoằng làm Tả, Hữu Phó Tổng binh, chỉ huy quân đội chinh phạt, còn đại tướng sẽ định sau. Binh bộ lại nhận chỉ dụ, trình bày 12 điều cần thiết khi dùng binh. Chỉ riêng Thị lang Phan Trân phản đối, dâng sớ can gián mạnh mẽ. Vua nổi giận, cách chức ông. Tổng đốc Lưỡng Quảng là Phan Đán cũng dâng sớ xin đình chỉ mệnh lệnh trước, nói: “Triều đình đang chuẩn bị quân để hỏi tội, thì Mạc Đăng Dung lại sai sứ xin triều cống. Nên nhân đó mà chấp thuận, giữ quân sẵn sàng, quan sát tình hình, chờ nước ấy tự ổn định.” Nhưng Nghiêm Tung và Trương Toản đoán được ý vua, kiên quyết phản đối, nói rằng Lê Ninh đang ở Thanh Đô mưu khôi phục, còn Phan Đán lại nói nước ấy đã yên, xin triều cống, là điều không thể chấp nhận. Tấu chương của Phan Đán bị gác lại. Tháng Năm, Mao Bá Ôn đến kinh, dâng sáu kế hoạch quân sự, cho rằng không thể cùng làm việc với Phan Đán, xin thay người, được vua khen ngợi. Nhưng khi Binh bộ trình kế hoạch, ý vua lại thay đổi, cho rằng chưa rõ thật giả về Lê Ninh, nên lệnh cho ba vùng biên phòng tùy cơ trấn an hoặc đánh dẹp, các đại thần phụ trách quân vụ và lương thảo đều tạm ngưng, Phan Đán được điều động trở lại, thay bằng Trương Kinh. Lúc đó, Ngự sử Từ Cửu Cao và Cấp sự trung Tạ Đình Thụy cũng dâng sớ bàn việc tu dưỡng, xin bãi bỏ việc chinh phạt phương Nam. Tháng Tám, Tuần phủ Vân Nam là Uông Văn Thịnh tâu rằng đã bắt được gián điệp của Mạc Đăng Dung và thu được bản “Đại cáo” giả do y soạn. Vua nổi giận, lệnh cho các quan trấn thủ tiếp tục thực hiện chiếu chỉ trước đó, tiến hành chinh phạt. Lúc ấy, Văn Thịnh chiêu mộ được cựu thần họ Lê là Vũ Văn Uyên 武文淵, người này dâng bản đồ đường tiến quân, cho rằng Mạc Đăng Dung chắc chắn có thể bị đánh bại, nên trình lên triều đình. Án sát Quảng Đông là Dư Quang tâu rằng: “Mạc tiếm ngôi nhà Lê, cũng như Lê từng tiếm ngôi nhà Trần, không cần xét quá sâu. Chỉ nên trị tội không vào triều cống, buộc họ xưng thần và tuân thủ cống lễ, không cần viễn chinh khiến Trung Quốc hao tổn.” Ông nói đã sai sứ tuyên dụ, nếu họ chịu quy phục thì nên thu nhận. Vua cho rằng Dư Quang quá khinh suất, phạt cắt lương một năm. Văn Thịnh liền gửi hịch sang An Nam, nói nếu Mạc Đăng Dung biết hối cải, chịu quy phục, nộp bản đồ nước, thì sẽ tha chết. Mạc Đăng Dung cùng con liền sai sứ dâng biểu xin hàng, đồng thời gửi thư cho Văn Thịnh và Quận công Mộc Triều Phụ, trình bày rằng họ Lê đã suy yếu, Trần Cảo phản nghịch, bản thân ông và con là Phương Doanh có công dẹp loạn, được dân quy phục, đất đai đã ghi trong “Nhất thống chí”, xin tha tội và xin được triều cống như lệ. Triều Phụ và các quan tâu việc này vào tháng Ba năm thứ mười bảy (1538). Nhưng Lê Ninh, theo chiếu chỉ trước, lo sợ triều đình sẽ chấp nhận lời hàng của Mạc Đăng Dung, nên cũng dâng tấu trình bày rõ việc tiếm ngôi, giết vua, số lượng quân mã, đường thủy bộ tiến quân. Các tấu chương đều được chuyển sang Bộ Binh, triệu các đại thần bàn bạc. Mọi người đều cho rằng tội của họ Mạc không thể tha, nên lập tức tiến quân. Xin cử Hầu Châu là Cừu Loan làm Tổng đốc quân vụ, Mao Bá Ôn tiếp tục làm Tham tán, vua đồng ý. Trương Kinh tâu rằng: “Đường tiến quân sang An Nam có sáu lộ, cần dùng 30 vạn quân, lương thực một năm cần 1,6 triệu quan, thêm chi phí đóng thuyền, mua ngựa, chế tạo binh khí, khao thưởng quân sĩ cũng cần hơn 70 vạn nữa. Huống chi quân ta phải vượt biển nóng, thế lực khác biệt, không thể không tính kỹ.” Khi tấu chương vừa dâng lên, Tri châu Khâm Châu là Lâm Hy Nguyên lại dâng sớ khẳng định có thể đánh được Mạc Đăng Dung. Bộ Binh không quyết được, lại xin triệu đình thần bàn tiếp. Khi bàn xong, vua không hài lòng, nói: “Trẫm nghe các khanh bàn riêng đều cho rằng không nên khởi binh. Các khanh là người lo việc nước, mà không ai chủ trương, cứ đùn đẩy cho hội nghị. Đã không đồng lòng vì nước, thì thôi vậy. Cừu Loan và Mao Bá Ôn sẽ thay người khác.” Năm thứ mười tám (1539), khi lập Hoàng thái tử, triều đình định ban chiếu cho An Nam. Đặc biệt triệu Hoàng Oản làm Thượng thư Lễ bộ, Học sĩ Trương Trị làm phó, sai đi sứ nước ấy. Vừa ban lệnh xong, thì Mạc Phương Doanh sai sứ dâng biểu xin hàng, kèm theo bản kê khai đất đai, hộ khẩu, xin để triều đình xử lý. Tổng cộng có 53 phủ, 49 châu, 176 huyện. Vua chấp nhận, giao cho Lễ bộ và Binh bộ cùng bàn bạc. Đến tháng Bảy, Hoàng Oản vẫn chưa lên đường, vì làm trái ý vua nên bị cách chức, việc sai sứ cũng bị đình chỉ. Ban đầu, việc nghị bàn chinh phạt xuất phát từ Hạ Ngôn. Vua trách Hoàng Oản rồi, nổi giận nói: “Việc An Nam vốn do một người khởi xướng, rồi mọi người hùa theo. Lại dám chê trách triều đình, bàn bạc lộng ngôn. Nước này nên bỏ hay nên đánh, cần có quyết định rõ ràng. Binh bộ phải lập tức họp bàn và tâu lên.” Vì thế, Trương Toản cùng các đại thần đều hoảng sợ, xin theo chiếu chỉ trước, tiếp tục sai Cừu Loan và Mao Bá Ôn đi đánh phương Nam. Nếu Mạc Đăng Dung cha con chịu trói tay quy phục, không có ý đồ khác, thì sẽ tha chết. Vua đồng ý. Mạc Đăng Dung nghe tin, rất mừng. Năm thứ mười chín (1540), Mao Bá Ôn và các tướng đến Quảng Tây, gửi hịch tuyên dụ ý triều đình rằng nếu quy phục thì sẽ tha tội. Lúc đó, Mạc Phương Doanh đã mất, Mạc Đăng Dung liền sai sứ xin hàng. Tháng Mười Một, ông dẫn theo cháu là Mạc Văn Minh 文明 cùng 42 viên quan, vào cửa ải Trấn Nam Quan, đầu trần chân đất, bò lết đến đàn tế, dâng biểu xin hàng. Mao Bá Ôn thay mặt triều đình tuyên đọc chiếu thư tha tội. Sau đó, Đăng Dung lại đến doanh trại quân đội, bò lết hai lần lạy, dâng sổ sách đất đai, dân số, xin được theo chính thống nhà Minh, mãi mãi làm phiên thần. Mao Bá Ôn và các tướng tuyên bố uy đức của triều đình, lệnh cho ông trở về nước chờ chỉ. Tin tấu dâng lên, vua rất vui mừng, ra lệnh giáng cấp nước An Nam thành “An Nam Đô thống sứ ty”, phong Mạc Đăng Dung làm Đô thống sứ, phẩm hàm tòng nhị phẩm, ban ấn bạc. Tất cả các chế độ mà ông từng tiếm xưng đều bị bãi bỏ, 13 đạo đổi thành 13 “Tuyên phủ ty”, mỗi nơi đặt quan Tuyên phủ, Đồng tri, Phó sứ, Thiêm sự, do Đô thống sứ quản lý, có quyền thăng giáng. Quảng Tây mỗi năm cấp lịch “Đại Thống”, ba năm một lần triều cống làm lệ thường. Triều đình cũng lệnh điều tra thật giả về Lê Ninh, nếu đúng là hậu duệ họ Lê thì cắt bốn phủ cho thờ tự, nếu không thì thôi. Chiếu ban xuống, Mạc Đăng Dung sợ hãi, vâng mệnh. Năm thứ hai mươi hai (1543), Mạc Đăng Dung qua đời, con của Phương Doanh là Mạc Phúc Hải 福海<ref>Mạc Hiến Tông</ref> kế vị, sai Tuyên phủ đồng tri là Nguyễn Điển Kính 阮典敬 cùng đoàn sứ sang triều cống. Năm thứ hai mươi lăm (1546), Phúc Hải mất, con là Mạc Hoằng Dực 宏瀷<ref>Mạc Tuyên Tông, húy Mạc Phúc Nguyên</ref> nối ngôi. Trước đó, Mạc Đăng Dung nhận người ở Thạch Thất là Nguyễn Kính 阮敬 làm nghĩa tử, phong làm Tây Ninh hầu. Nguyễn Kính gả con gái cho con thứ hai của Phương Doanh là Mạc Kính Điển, rồi Nguyễn Kính tư thông với vợ của Phương Doanh là bà Vũ thị, nhờ đó nắm toàn quyền quân sự. Khi Hoằng Dực lên ngôi, mới 5 tuổi, Nguyễn Kính càng chuyên quyền. Con thứ hai của Đăng Dung là Mạc Chính Trung và cháu là Mạc Văn Minh phải lánh về Đô Trai, những người cùng phe như Nguyễn Như Quế, Phạm Tử Nghi cũng ẩn cư nơi thôn dã. Nguyễn Kính đem quân ép Đô Trai, bọn Chính Trung, Như Quế, Tử Nghi chống cự nhưng thất bại. Chính Trung và Văn Minh đem gia quyến chạy sang Khâm Châu, Tử Nghi thu nhặt tàn quân trốn ra Hải Đông. Nguyễn Kính giả xưng Hoằng Dực đã chết, lấy cớ lập Chính Trung, kéo quân đánh Khâm Châu, nhưng bị Tham tướng Du Đại Du đánh bại và bị giết. Khi Hoằng Dực mới lên ngôi, từng sai sứ là Lê Quang Bí sang triều cống, đến Nam Ninh thì quan trấn thủ báo về triều. Lễ quan cho rằng nước ấy đang loạn, ngôi vị chưa rõ ràng, nên không cho sứ vào, mà lệnh cho quan trấn thủ điều tra người nên lập. Đến năm thứ ba mươi (1551), sự việc được làm rõ, triều đình phong Hoằng Dực làm Đô thống sứ, lệnh đến cửa ải nhận sắc lệnh. Nhưng đúng lúc đó, bộ tướng Lê Bá Ly cùng thần của Lê Ninh là Trịnh Kiểm hợp binh tấn công, Hoằng Dực phải chạy về Hải Dương, không thể đến nhận sắc. Lê Quang Bí và đoàn sứ bị giữ lại ở Nam Ninh suốt 15 năm, phần lớn người đi cùng đều đã mất. Hoằng Dực cầu xin quan trấn thủ thay mình dâng biểu, triều đình cho phép vào kinh, nhưng sắc phong Đô thống vẫn phải đợi Hoằng Dực đến cửa ải mới trao. Năm thứ 43 (1564), Hoằng Dực mất, con là Mạc Mậu Hợp kế vị. Năm Vạn Lịch nguyên niên (1573), được phong làm Đô thống sứ. Năm thứ ba (1575), sai sứ sang tạ ơn, chúc mừng vua Minh lên ngôi, dâng cống phẩm và bù lại các lần triều cống bị thiếu trước đó. Lúc này, họ Mạc dần suy yếu, họ Lê phục hưng, hai bên liên tục giao tranh, khiến quốc gia ngày càng rối loạn. Ban đầu, khi Lê Ninh chiếm giữ Thanh Hoa, ông vẫn tự xưng đế hiệu, đổi niên hiệu là Nguyên Hòa vào năm Gia Tĩnh thứ 9 (1530). Sau bốn năm, bị Mạc Đăng Dung tấn công, ông phải chạy sang vùng biên giới Chiêm Thành. Người trong nước lập em ông là Lê Hiến 憲 lên thay, đổi niên hiệu là Quang Chiếu 光照. Đến năm thứ 15 (1536), bề tôi dò biết nơi ở của Lê Ninh, liền đón ông về lại Thanh Hoa, sau đó chuyển đến sống ở sông Tất Mã. Lê Ninh mất, cận thần là Trịnh Kiểm lập con ông là Lê Sủng 寵<ref>Lê Trung Tông</ref> lên ngôi. Lê Sủng mất, không có con, người trong nước cùng nhau lập Lê Duy Bang<ref>Lê Anh Tông</ref>, cháu bốn đời của Lê Huy 黎暉. Lê Duy Bang mất, con của Trịnh Kiểm là Trịnh Tùng lập con Duy Bang là Lê Duy Đàm 維潭<ref>Lê Thế Tông</ref> lên ngôi. Từ đó, họ Lê đóng đô ở Thanh Hoa, tự lập thành một quốc gia riêng. Năm Vạn Lịch thứ 19 (1591), Lê Duy Đàm ngày càng mạnh, đem quân tấn công Mạc Mậu Hợp. Mậu Hợp thua trận, chạy đến huyện Gia Lâm. Mùa đông năm sau (1592), Trịnh Tùng dụ dỗ người địa phương làm nội ứng, bất ngờ tập kích giết chết Mậu Hợp, đoạt lấy ấn Đô thống sứ. Nhiều người thân cận của Mậu Hợp cũng bị giết hại. Có người tên là Mạc Đôn Nhượng 莫敦讓 chạy đến Phòng Thành cầu cứu, Tổng đốc Trần Cừ tâu việc lên triều đình. Nhưng sau đó, Mạc Đôn Nhượng lại bị Tùng bắt, thế lực của Trịnh Tùng càng lớn mạnh. Con của Mậu Hợp là Mạc Kính Cung 敬恭 cùng tông thất là Mạc Lý Tốn 履遜 chạy đến Tư Lăng châu thuộc Quảng Tây, còn Mạc Lý Cơ 莫履機 chạy sang Khâm Châu. Chỉ có Mạc Kính Bang 莫敬邦 tập hợp được hơn mười vạn quân, khởi binh từ đường Kinh Bắc, đánh tan quân họ Lê do Phạm Bạt Tụy và Phạm Bách Lộc chỉ huy, giúp Mạc Đôn Nhượng trở lại. Quần chúng liền tôn Mạc Kính Bang làm quyền Đô thống, những người họ Mạc lưu vong ở Tư Lăng và Khâm Châu đều trở về. Quân họ Lê sau đó tấn công Nam Sách châu, Mạc Kính Bang bị giết, thế lực họ Mạc càng suy yếu. Mạc Kính Cung và Mạc Kính Dụng 敬用 đóng quân ở Lạng Sơn và Cao Bằng, Mạc Kính Chương 敬璋 đóng ở Đông Hải và Tân An, vì sợ quân họ Lê truy đuổi nên phải chạy đến biên giới Long Châu và Bằng Tường, sai thổ quan trình bày sự việc với quan lại địa phương. Lê Duy Đàm cũng đến cửa ải xin được triều cống, và được triều đình nhà Minh công nhận là quốc vương, ban cho kim ấn. Năm thứ 21 (1593), Tuần phủ Quảng Tây là Trần Đại Khoa cùng các quan dâng sớ tâu rằng: “Xứ man di thay họ (vua chúa) như đánh cờ, không nên lấy việc họ trung hay phản với nhau để định là thuận hay nghịch, mà chỉ nên lấy việc họ trung hay phản với triều đình ta để xét. Nay tuy Lê Duy Đàm mưu khôi phục, nhưng Mạc Mậu Hợp vốn là ngoại thần của triều đình ta, sao có thể không xin phép ta mà lại ngang nhiên giết ông ta? Thần cho rằng tội của họ Lê tự ý khởi binh không thể không xét, còn tàn dư họ Mạc cũng không thể bỏ mặc. Nếu theo lệ cũ của triều trước, cho họ Lê quy phục mà vẫn giữ họ Mạc, như từng làm với vùng sông Tất Mã, không diệt tế tự của họ, thì là kế sách hợp lý.” Triều đình bàn luận và đồng ý theo lời tâu đó. Năm sau (1594), Trần Đại Khoa đang sai quan đi điều tra thì Mạc Kính Dụng đã sai sứ đến doanh trại quân đội xin cứu viện. Mùa thu năm sau nữa (1595), Lê Duy Đàm cũng sai sứ đến tạ tội và xin triều cống. Lúc này, Trần Đại Khoa đã được thăng làm Tổng đốc Lưỡng Quảng, cùng với Tuần phủ Quảng Tây là Đới Diệu giao việc cho Phó sứ Tả Giang là Dương Dần Thu. Dần Thu ngầm tính toán rằng: “Không từ chối họ Lê, cũng không bỏ rơi họ Mạc — đó là kế sách của ta.” Ông liền hai lần sai quan đến điều tra. Mạc Kính Cung và những người khác xin được ở lại Cao Bằng, còn sứ giả của Lê Duy Đàm cũng nhiều lần đến xin triều cống. Dần Thu hẹn ngày tiếp nhận, rồi báo cáo lên Tổng đốc và Tuần phủ. Đúng lúc đó, Mạc Kính Chương dẫn quân đến ứng cứu Vĩnh An, nhưng bị quân họ Lê đánh bại, mất toàn bộ vùng Hải Đông và Tân An. Vì vậy, việc nghị hòa càng được thúc đẩy và đi đến quyết định. Lúc đó, Lê Duy Đàm mưu tính khôi phục danh nghĩa chính thống, không muốn tự đặt mình vào vị trí như Mạc Đăng Dung trước kia, nên không có ý định tự trói mình vào cửa ải xin hàng. Dương Dần Thu lại sai quan đến dụ hàng, sứ giả của Lê Duy Đàm lúc đầu báo rằng sẽ làm theo hẹn, nhưng đến kỳ thì lại nói với quan giữ cửa ải rằng: “Quân lính đói khát, bệnh tật, lễ vật chưa chuẩn bị xong. Hơn nữa, họ Mạc là kẻ thù của chúng tôi, đang ở Cao Bằng, nên chưa dám vâng mệnh.” Rồi nửa đêm bỏ trốn. Trần Đại Khoa và các quan dâng sớ tâu việc này, cho rằng đó là do quyền thần Trịnh Tùng chuyên quyền gây ra. Sau đó, Lê Duy Đàm lại sai sứ đến cửa ải, trình bày rằng mình không phải cố ý bỏ trốn. Trần Đại Khoa và các quan lại sai người đến dụ hàng lần nữa, lần này Lê Duy Đàm chịu nghe theo mệnh lệnh. Năm thứ 25 (1597), Lê Duy Đàm sai sứ xin định ngày vào cửa ải, Dương Dần Thu báo là tháng Tư. Đến kỳ hẹn, Lê Duy Đàm đến ngoài cửa ải, phiên dịch viên tra hỏi sáu điều: * Vì sao tự ý giết Mạc Mậu Hợp? – Đáp: Vì báo thù gấp, không kịp xin phép. * Dòng dõi? – Đáp: Là Thế tôn, cháu của Lê Duy Huy, từng được nhà Minh sắc phong. * Về Trịnh Tùng? – Đáp: Là đại thần lâu đời của họ Lê, không phải kẻ tiếm quyền. * Vì sao trước đó bỏ trốn? – Đáp: Do chưa chuẩn bị đủ lễ vật, không phải cố ý. * Việc sử dụng ấn vương? – Đáp: Tạm dùng để điều hành, nay đã hủy bỏ. * Không nhường Cao Bằng cho họ Mạc? – Đáp: Cả hai đều là chư hầu, như trước kia họ Lê từng được ở sông Tất Mã. Sau khi chấp thuận các điều kiện, Lê Duy Đàm được ban nghi lễ vào cửa ải, thực hiện lễ triều cống như Mạc Đăng Dung từng làm. Sau đó đến gặp Dương Dần Thu, xin được dùng lễ khách chủ, nhưng không được chấp thuận, đành làm lễ bốn lạy rồi lui. An Nam được ổn định trở lại. Triều đình phong Lê Duy Đàm làm Đô thống sứ, ban lịch và cho phép triều cống như lệ cũ của họ Mạc. Trước kia, Lê Lợi và Mạc Đăng Dung khi tiến cống đều phải dâng tượng vàng thay thân, đầu trần tay trói. Riêng Lê Duy Đàm vì danh nghĩa khôi phục chính thống nên đứng thẳng nghiêm trang, khiến quan lại thấy ông quá kiêu, buộc phải sửa lại. Cuối cùng, ông dâng tượng vàng trong tư thế quỳ phục, khắc trên lưng dòng chữ: “An Nam Lê thị Thế tôn, thần Lê Duy Đàm không thể quỳ trước Thiên môn, kính dâng tượng vàng thay thân, xin hối lỗi và cầu ân.” Từ đó, An Nam lại thuộc về họ Lê, còn họ Mạc chỉ giữ được một quận là Cao Bằng. Năm thứ 27 (1599), Lê Duy Đàm mất, con là Lê Duy Tân 維新<ref>Lê Kính Tông</ref> kế vị, Trịnh Tùng nắm toàn quyền. Gặp lúc thủ lĩnh nổi loạn là Phan Ngạn gây rối, Lê Duy Tân và Trịnh Tùng phải dời về giữ Thanh Hóa. Năm thứ 34 (1606), sai sứ sang triều cống, được phong làm Đô thống sứ. Lúc này, tông đảng họ Mạc phần lớn trốn ra vùng ven biển, thường tự xưng công, hầu, bá, xâm phạm biên giới. Lê Duy Tân cũng không thể kiểm soát được. Quan trấn thủ nhiều lần gửi hịch hỏi tội, phát binh đánh dẹp, tuy có lúc dẹp yên, nhưng vùng biên vẫn bị tổn hại. Lê Duy Tân mất, con là Lê Duy Kỳ 維祺<ref>Lê Thần Tông</ref> kế vị. Năm Thiên Khải thứ 4 (1624), Duy Kỳ phát binh đánh Mạc Kính Khoan, chiếm được, giết con trưởng của Khoan, bắt vợ con và con nhỏ đem về. Mạc Kính Khoan 莫敬寬 cùng con thứ trốn vào rừng, sau quay lại Cao Bằng, thế lực ngày càng suy yếu. Tuy vậy, cho đến cuối thời Minh, hai họ Lê – Mạc vẫn chia nhau chiếm cứ, không thể thống nhất đất nước. Kinh đô An Nam đặt tại Giao Châu, tức nơi từng là trị sở của Đô hộ phủ nhà Đường. Lãnh thổ phía đông giáp biển, phía tây giáp Lào, phía nam vượt biển là Chiêm Thành, phía bắc giáp Tư Minh và Nam Ninh của Quảng Tây, Lâm An và Nguyên Giang của Vân Nam. Đất đai màu mỡ, khí hậu nóng, mỗi năm trồng lúa được hai vụ. Tính người cứng cỏi, mạnh mẽ. Hai châu Hoan và Diễn có nhiều người học vấn; châu Giao và Ái có nhiều người hào sảng, khác biệt với các vùng khác. {{Chú thích cuối trang}} 8alqr37q2a33kv0163755vq39bq5kmx Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/21 104 68412 195775 195658 2025-06-19T06:05:02Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195775 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" /></noinclude>{{không vào hàng|{{chữ đầu lớn|T}}ẬN hưởng cái thú vị của hạnh phúc trong một phút đê mê, nghĩa là đã sống đầy đủ vậy. — Hãy cầu nguyện với vì Ác-tinh xuống họa cho người để nghe rõ tiếng kêu thương, vì hạnh phúc nằm trong đau khổ.}} Tín đồ nhà Phật lấy phút cuối cùng làm hạnh phúc. — Em ơi! ghen ghét hạnh phúc của người là một sự điên rồ... {{mảng sao}} Ngày nay còn ai đâu biết đến giá trị của sắc đẹp. Triết lý và văn thơ là những danh-từ đã chết. Triết lý là vun trồng, nuôi nấng thi văn, mà thi văn là để cắt nghĩa ra triết lý. Tôi không cần ai giảng triết lý, vì nếu<noinclude></noinclude> brxt5kl5raboet4dgrmcah3o04i04gv Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/22 104 68413 195776 195659 2025-06-19T06:11:38Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195776 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" />{{rh|''20''|''CHƠI GIỮA MÙA TRĂNG''|}}</noinclude>trong khi mộng tôi đi đến xứ Hy-Lạp và đã đọc câu châm ngôn khắc dưới chân pho tượng khổng lồ của Sardanapale: ''Ăn chơi thả cửa kỳ dư không bằng một cái nhịp tay.'' Mùa thu chưa tới. Hồn tôi đã nhuộm màu ảo não. Trăng thu ở lòng tôi đã mờ mờ lạnh. Đời thái bình, Nàng không phải ái ngại, chờ sương tan đưa tiễn khách chinh phu. Nhà nghệ-sĩ bao giờ cũng điên. Tài năng thì có giới hạn. Dám đem tài mọn làm rộn nước mây. Sẽ bị mạng trời đánh ngã. — Than ôi! tài hoa là một điều tai hại! <poem> Con sông này đã đi qua. Suốt đời ta thề không trở lại. Vì cô lái đã lên bờ... Không có ái tình tuyệt đối.... </poem> Yêu thương chỉ là một trạng thái của tâm hồn. Gò má đỏ ửng lên... Đây là hơi máu dồn lại, vì thẹn, vì hờn, vì cảm... vì say nắng ban mai... {{nop}}<noinclude></noinclude> a2ceph1v6glzg1ouf8ssxpf9n82li8d Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/23 104 68414 195777 195660 2025-06-19T06:15:10Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195777 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" />{{rh||''MÙA THU ĐÃ TỚI''|''21''}}</noinclude><poem> Những ai đã về Huế mà không ăn đào? Hãy cắn miếng nữa, và cắn cho sâu. Xin đừng cắn nhầm môi thiếu nữ. </poem> « Nhứt nhựt bất kiến như tam thu » nếu phải quì lạy dâng tất cả những ngày sung sướng đã qua và sẽ tới cho người để đổi lấy một phút gặp gỡ... tôi cũng xin vâng. Nhưng chẳng bao giờ tôi chịu đem những ngày đau khổ cực điểm đổi lấy những đêm hoan lạc trong cung A-hoàn.<noinclude></noinclude> qqe4bpd692s3gvv0yjl101coi5ndp14 Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/25 104 68415 195779 195661 2025-06-19T06:19:14Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195779 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" /></noinclude>{{g| {{lớn|{{letter-spacing|0.2em|KÊU GỌI}}}}}}<noinclude></noinclude> jc6p9ruvmrsvb7la7puy1im24e2u9hv Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/27 104 68416 195781 195662 2025-06-19T06:27:33Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195781 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" /></noinclude>{{không vào hàng|{{chữ đầu lớn|Ý}} còn ở trong lòng thì rạo rực xốn-xang khi phô phang lên giấy thì tê-dại, ngất ngư, như không có chút gì là rung động nữa. Vì thế tôi đọc thơ Nàng thấy tình lặng lẽ như khí hậu đêm buồn...}} Mỗi khi Nàng bấm một đường tơ, có ai nghe Nàng nói gì chăng? Đừng tưởng tình Nàng câm như bình mực, cái nhấn buông ra, biết bao là lời thương tiếc thuở thanh-xuân? {{SIC|Ma|Mà}} chỉ có trăng nhận thấy, cảm động đến run lên, gió nghe qua luống cuống không biết nên bay về phương mô, và hoa lá thì sượng sần... Lòng ta hừng hực mỗi khi nắng hanh lên. Ấy là dấu hiệu mùa thơ đã chín. Gặt hái cho mau, kẻo ngọn thơ càng cao, {{SIC|ngườ|người}} thơ càng điên dại. Nàng ơi, hãy mượn {{SIC|luỡ|lưỡi}} liềm của trăng non mà hái, xin đừng dẫm lên bờ lòng ta. Một đêm say rượu nhớ Nàng! Khách đã<noinclude></noinclude> 010by8p6fdoyd6e2vmrpiv6q97g9mvv Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/28 104 68417 195786 195663 2025-06-19T06:39:24Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195786 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" />{{rh|''26''|''CHƠI GIỮA MÙA TRĂNG''|}}</noinclude>khóc sưng vù đôi mắt, và từng giọt lệ đã vô tình nhỏ vào ly rượu; có ai ngờ khách đến cuồng tâm dại trí nhúng cả mảnh hình Nàng trong rượu rồi mê man, vừa uống vào lòng cả rượu, cả nước mắt và cả bóng dáng xinh tươi của nàng! Ở đời chỉ có một hạnh phúc. Làm chi có đến hai cảnh Tịnh-độ và Niết-bàn. Gần tận thế rồi, thiếu gì tiên tri giả ra đời. Nàng hãy mê man màu sắc thanh thiên, như đã mê son phấn của sa hoa. Yêu nhau làm gì nữa. Lửa bởi trời sắp tuôn xuống đốt rụi cả thế gian và không gian. Mau mau vồ lấy trăng sao, kẻo một mai rời rụng vào hư-lãng. Thôi còn chi là ánh sáng nữa. Nhạc sẽ không va nhằm tơ trăng, và hương sẽ không gần được hương, như lòng ai đương kêu gọi lòng ai...<noinclude></noinclude> j9y0ny4w28rp7bwq7aexda57qxgpdvy Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/29 104 68418 195790 195664 2025-06-19T06:46:15Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195790 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" /></noinclude>{{g| {{lớn|{{letter-spacing|0.4em|QUAN NIỆM THƠ}}}}}} {{p|{{nhỏ|''gởi Trọng Miên''}}}}<noinclude></noinclude> ce3rqqdsnztmlttd43vks4hcbwnh3ky Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/31 104 68419 195792 195665 2025-06-19T06:56:33Z Tranminh360 1642 195792 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="1" user="Tranminh360" /></noinclude>{{không vào hàng|{{chữ đầu lớn|M.}} ''có hỏi Trí<ref>Tức là Hàn-mặc-Tử.</ref> về quan niệm thơ. Đối với Trí quan niệm rất khác thường, không giống Baudelaire lắm. Theo Baudelaire, thì va lấy passion làm hứng vị cho thơ. Trước kia nếu M {{SIC|lâp|lập}} tập'' Thơ Điên ''của Trí ra. M sẽ thấy nhiều bài thấm thía những tình cảm rất nồng và rất say sưa... Trí đã phát tiết hết tinh lực của hồn, của máu, bằng những câu thơ ngất đi vì khoái tạc. Chỗ ấy, hơi đồng một quan niệm với Baudelaire. Trí nói hơi đồng thôi vì trong khi làm thơ, Trí đã tận hưởng những phong vị của nhạc, của hoa, của trăng, của gái một cách vô tội. Chứ đối với Baudelaire, va đã nói « la passion est chose naturelle...'' » ''nghĩa là va đã hiểu lầm chữ passion rồi vậy.''}} ''Tình cảm — hay cảm hứng'' (''enthousiasme'') — ''với dục tình'' (''passion'') ''khác nhau nhiều.''<noinclude>{{vạch|4em|canh=trái}}{{chú thích nhỏ}}</noinclude> ey9zexkhymu9ldu6tb2tta9uzumwfip 195793 195792 2025-06-19T06:57:54Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195793 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" /></noinclude>{{không vào hàng|{{chữ đầu lớn|M.}} ''có hỏi Trí<ref>Tức là Hàn-mặc-Tử.</ref> về quan niệm thơ. Đối với Trí quan niệm rất khác thường, không giống Baudelaire lắm. Theo Baudelaire, thì va lấy passion làm hứng vị cho thơ. Trước kia nếu M {{SIC|lâp|lập}} tập'' Thơ Điên ''của Trí ra. M sẽ thấy nhiều bài thấm thía những tình cảm rất nồng và rất say sưa... Trí đã phát tiết hết tinh lực của hồn, của máu, bằng những câu thơ ngất đi vì khoái tạc. Chỗ ấy, hơi đồng một quan niệm với Baudelaire. Trí nói hơi đồng thôi vì trong khi làm thơ, Trí đã tận hưởng những phong vị của nhạc, của hoa, của trăng, của gái một cách vô tội. Chứ đối với Baudelaire, va đã nói « la passion est chose naturelle...'' » ''nghĩa là va đã hiểu lầm chữ passion rồi vậy.''}} ''Tình cảm — hay cảm hứng'' (''enthousiasme'') — ''với dục tình'' (''passion'') ''khác nhau nhiều.''<noinclude>{{vạch|4em|canh=trái}}{{chú thích nhỏ}}</noinclude> m9eq75wni8ayo0870k5q9q6o0yawihm Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/32 104 68420 195795 195666 2025-06-19T07:06:48Z Tranminh360 1642 195795 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="1" user="Tranminh360" />{{rh|''30''|''CHƠI GIỮA MÙA TRĂNG''|}}</noinclude>30 CHƠI GIỮA MÙA TRĂNG ai có một cõi ''Tình cảm là sự thanh bạch hồn nhiên, không có một chút gì bợn nhơ, tội lỗi, còn dục tình là cả một sự ham muốn phi thường ngoài điều răn của Đức Chúa Trời. Tất cả trong thế gian này hay có một cõi xuất thế gian nào nữa, những thứ gì đã trụ trong hai thế gian ấy (cõi hữu hình và cõi vô vi'') ''đều là hình ảnh của thơ cả'' Đức Chúa Trời đã tạo ra trăng, hoa, nhạc, hương là để cho người đời hưởng thụ. (éléments de la poésie'') nhưng người đời u mê phần nhiều không biết tận hưởng một cách say {{SIC|sua|sưa}}, và nhân đấy, chiêm nghiệm lẽ màu nhiệm, phép tắc của Đấng Chí Tôn. Ví thế, trừ hai loài trọng vọng là'' « ''thiên thần và loài người ta'' »'', Đức Chúa Trời phải cho ra đời một loài thứ ba nữa: loài Thi Sĩ. Loài nầy là những bông hoa rất quí và rất hiếm'', sinh ra đời với một sứ mạng rất thiêng liêng: phải biết tận hưởng những công trình châu báu của Đức Chúa Trời đã gây nên, ca ngợi quyền phép của Người, và trút vào linh<noinclude></noinclude> k6puc1oh4dtsb3ce1op26ou8uu21xgz 195796 195795 2025-06-19T07:07:34Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195796 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" />{{rh|''30''|''CHƠI GIỮA MÙA TRĂNG''|}}</noinclude>''Tình cảm là sự thanh bạch hồn nhiên, không có một chút gì bợn nhơ, tội lỗi, còn dục tình là cả một sự ham muốn phi thường ngoài điều răn của Đức Chúa Trời. Tất cả trong thế gian này hay có một cõi xuất thế gian nào nữa, những thứ gì đã trụ trong hai thế gian ấy (cõi hữu hình và cõi vô vi'') ''đều là hình ảnh của thơ cả'' Đức Chúa Trời đã tạo ra trăng, hoa, nhạc, hương là để cho người đời hưởng thụ. (éléments de la poésie'') nhưng người đời u mê phần nhiều không biết tận hưởng một cách say {{SIC|sua|sưa}}, và nhân đấy, chiêm nghiệm lẽ màu nhiệm, phép tắc của Đấng Chí Tôn. Ví thế, trừ hai loài trọng vọng là'' « ''thiên thần và loài người ta'' »'', Đức Chúa Trời phải cho ra đời một loài thứ ba nữa: loài Thi Sĩ. Loài nầy là những bông hoa rất quí và rất hiếm'', sinh ra đời với một sứ mạng rất thiêng liêng: phải biết tận hưởng những công trình châu báu của Đức Chúa Trời đã gây nên, ca ngợi quyền phép của Người, và trút vào linh<noinclude></noinclude> if93gjhwh7v93zlcajf3crxgxqv7o8m Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/33 104 68421 195798 195667 2025-06-19T07:15:18Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195798 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" />{{rh||''QUAN NIỆM THƠ''|''31''}}</noinclude>hồn người ta, những nguồn khoái lạc đê mê, nhưng rất thơm tho, rất tinh sạch (but de la poésie''). Bởi muốn cho loài thi sĩ làm tròn nhiệm vụ ở thế gian nầy, — nghĩa là tạo ra những tác phẩm tuyệt diệu, lưu danh lại muôn đời, Người bắt chúng phải mua bằng giá máu, luôn luôn có một định mệnh tàn khốc theo riết bên mình.'' <poem> :Không rên siết là thơ vô nghĩa lý. ''Hay:'' :Ta hiểu chi trong áng gió nhiệm màu :Những hạt lệ của trích tiên đày đọa </poem> Cho nên thơ là một tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thương nhớ, ước ao trở lại trời, là nơi đã sống ngàn kiếp vô thỉ, vô chung, với những hạnh phúc bất tuyệt. ''Thi sĩ rơi xuống cõi đời, bơ vơ, bỡ ngỡ và lạ lùng. Không có lấy'' một người hiểu mình. ''Thi sĩ đã ngất ngư trong khi nuốt hết khí vị thanh tao của mùa xuân ấm, của tất cả những lương thực ngon ngọt mĩ''<noinclude></noinclude> eelef4806u73yhx1mc1c5l1qmv8by75 Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/34 104 68422 195803 195668 2025-06-19T07:33:56Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195803 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" />{{rh|''32''|''CHƠI GIỮA MÙA TRĂNG''|}}</noinclude>''vị làm bằng hương báu, làm bằng nhạc thiêng, làm bằng rượu say, làm bằng châu lệ...'' (''genèse d'un poème''). Song le miệng lưỡi của thi sĩ vẫn nóng ran, vẫn còn khát khao thèm thuồng những vật lạ muôn đời (génie créateur, aimant toujours le nouveau) ''Của thế gian nếm mãi, chưa bưa, chưa ớn chưa hả hê chút nào. Thi sĩ vẫn đi tìm mãi vẫn còn kêu rên thảm thiết, để đi đến coi ước mơ hoàn toàn. Trong đời thi sĩ, thi sĩ đã sống cô độc, những người con gái rất xinh đẹp cũng không làm cho thi sĩ vui đặng, vì thi sĩ nhận thấy ở người con trai cũng như ở người con gái, đều có {{SIC|môt|một}} tâm thuật nhỏ nhoi tầm thường không hợp với tánh tình thanh cao của thi sĩ Vì thế, thi sĩ cứ kêu rên thảm thiết là để tìm một người tri kỷ. Mà than ôi, không bao giờ thi sĩ tìm đặng. Người tri kỷ của thi sĩ phải là một bậc cao quí, toàn tài, toàn năng, một đấng mà thi sĩ nhận lấy như là hết cả mọi sự — Đấng ấy là Đức Chúa Trời''<noinclude></noinclude> 4g5gdqlvrhrm9u51m2wlj8yi7v73po6 Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/35 104 68423 195804 195669 2025-06-19T07:43:02Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195804 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" />{{rh||''QUAN NIỆM THƠ''|''33''}}</noinclude>''— Thi sĩ chỉ có thể trút hết hận tình với Đức Chúa Trời, kể lể hết niềm đau thương với Người, dâng cho Người những bài thơ sáng láng anh hoa, thế mới là mãn nguyện. Vì Đức Chúa Trời đã tạo ra thơ ở thế gian nầy, nhưng thi sĩ là người khát khao vô tận, cứ nhất định muốn hưởng'' cái thơ ''trên'' cái thơ ''khác nữa. Chỉ có Đức Chúa Trời mới làm vừa lòng thi sĩ.'' Cho nên tất cả thi sĩ ở trong đời phải qui tụ, phải đi khơi mạch thơ ở Đức Chúa Trời. ''Thi sĩ không phải là một người thường. Với một sứ mệnh của Trời, thi sĩ phải biết đem tài năng ra ca ngợi Đấng Chí Tôn, và làm cho người đời thấy rõ vẻ đẹp của thơ, để đua nhau nhìn nhận và tận hưởng. Những thi sĩ nào không biết đem tài ứng dụng vào chỗ tốt đẹp, thì sẽ bị Đức Chúa Trời lấy tài lại một cách nhãn tiền!'' ''M. ơi, như thế, thì M. đã hiểu thế nào là quan niệm của Trí về thơ.'' Thơ là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong<noinclude></noinclude> 06mvtf4725eue2d11q19aolkdsjw5sy Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/36 104 68424 195805 195670 2025-06-19T07:55:22Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195805 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" />{{rh|''34''|''CHƠI GIỮA MÙA TRĂNG''|}}</noinclude>trắng của một cõi trời cách biệt. ''Câu này ăn ý với câu:'' Thơ là những tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thương nhớ cảnh chiêm bao, giải thích bằng hai mặt: lạc quan và bi quan. ''Trí đã tóm tắt những ý đã nói. Có điều này nữa, Trí khác với Baudelaire. Baudelaire nói: thơ văn không thể dung hòa với khoa học hay luân lý (hoặc tôn giáo cũng thế) và thơ văn không thể lấy'' chân lý ''làm chủ đích được,'' thơ chỉ là thơ. (''La poésie ne peut pas sous peine de mort ou de déchéance, s'assimiler à la science ou à la morale. Elle n'a pas la vérité pour objet, elle n'a qu'elle-même''). ''Baudelaire nói trái nghịch với lẽ tự nhiên. Sở dĩ thơ văn được phong phú dồi dào, phát triển hết cả anh hoa huyền bí, và vượt lên những tầng biên giới tân kỳ, mới lạ cũng nhờ khoa học điểm chuyết cả. Còn luân lý, là tiêu chuẩn cho văn thơ, không có nó thì thơ văn chẳng còn ra cái mùi mẫn gì nữa. Nếu để thơ trơ trọi một mình, thơ sẽ lạt''<noinclude></noinclude> nnzgsc6cu5xzgflyfeh3rep5fp03r4h Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/37 104 68425 195806 195671 2025-06-19T08:01:19Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195806 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" />{{rh||''QUAN NIỆM THƠ''|''35''}}</noinclude>''lẽo, vô duyên, không có phong vị gì nữa. Baudelaire thuộc về phái vô thần, nên không tin có Chân Lý, không nhận Chân Lý làm tiêu chuẩn cho văn thơ. Còn Trí phải lấy Đức Chúa Trời làm'' Chân Lý'', làm'' tiêu chuẩn ''cho văn thơ.'' Văn thơ không phải bởi không mà có. {{nhỏ|Quinhơn Juin 1939,}}<noinclude></noinclude> 3yc7flatysmbirl9sf8v17ku1llfusv Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/39 104 68426 195809 195672 2025-06-19T08:14:29Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195809 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" /></noinclude>{{g| {{lớn|{{letter-spacing|0.3em|KHAO KHÁT}}}}}}<noinclude></noinclude> kz71krbp9yzwbrettaper6xvysdisdy Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/41 104 68427 195810 195673 2025-06-19T08:21:15Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195810 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" /></noinclude>{{không vào hàng|{{chữ đầu lớn|T}}ÔI đòi cao lương, mỹ vị của nguồn đạo ngày xưa.}} Thì trăng gió đền cho tôi muốn hộc hào quang. Tôi cầm đêm lại cho y nguyên khí hậu, nhưng mà khúc sinh ca đời Nghiêu Thuấn còn đồng vọng trong pho sách, trên trang giấy tài hoa. {{mảng sao}} Mùa thương nhớ dậy khắp phương trời, miệng lưỡi tôi sao không thèm khát máu thanh xuân? Tôi từ trong chiêm bao đi ra, đi về thuyền ở bên trăng cổ độ. Nước mắt khóc vì người lạ không biết tuổi trân châu, Buồn dồn lại từng đống, đừng có ai đếm cho ai biết là<noinclude></noinclude> odqoe2sn0wh86hyhr6qk16yomqvjq5s Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/42 104 68428 195811 195674 2025-06-19T08:28:09Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195811 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" />{{rh|''40''|''CHƠI GIỮA MÙA TRĂNG''|}}</noinclude>bao nhiêu, bởi trí tôi chưa thỏa. Lòng cô liêu làm chi tìm được một mùa xuân ấm áp? Và bao làn tư tưởng bay đi rồi, mong chi níu lại để thương thầm? Tuồng hát đêm qua, sao không thấy Quan Công phò nhị tẩu? Cho tôi mong đến ngày sum hiệp của thơ trăng? Chao! mộng thì xa, tình thì rộng, biết làm sao xin với lượng trời đây!<noinclude></noinclude> luh1cfhwolxab1rrw62dw2kfovg3zz1 Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/43 104 68429 195815 195675 2025-06-19T08:40:29Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195815 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" /></noinclude>{{g| {{lớn|{{letter-spacing|0.4em|TÌNH}}}}}}<noinclude></noinclude> ky86o34qi3r098t6jmf2tqvzcb8zwm8 195816 195815 2025-06-19T08:40:57Z Tranminh360 1642 195816 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" /></noinclude>{{g| {{lớn|{{letter-spacing|0.3em|TÌNH}}}}}}<noinclude></noinclude> jgw6n7mhxeccqnl14owwvqylj2fv25z Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/45 104 68430 195818 195676 2025-06-19T08:49:28Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195818 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" /></noinclude>{{không vào hàng|{{chữ đầu lớn|T}}ÌNH-cảm!}} Tình-hoài? Tình ơi là tình! Tôi say tình cũng như tôi say trăng, say người thục-nữ, say kinh cầu-nguyện, say trời tương-tư... Tình không những châu lưu trong khí huyết của hồn tôi, tình còn lưu lộ ra làn da nong-nóng hồng đào như trứng gà so. Tình còn trút ra ở đầu mày, cuối mắt, đằng môi. Và thiết tha chưa, lời nói bằng hơi thôi đã bối rối vì mê... Tình dồn lên giấy trắng: ý tôi bỗng rung rung và đọng lại đây như trăng đọng ở dưới cầu. Tình thoát ra ở điệu nhạc mênh-mang trong bờ bến của chiêm bao, yếu đuối, run-rẩy trước làn gió ngọt ngào. {{nop}}<noinclude></noinclude> n0858u399d6ad9f110zz6qwg02g6b69 Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/46 104 68431 195820 195677 2025-06-19T08:59:56Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195820 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" />{{rh|''44''|''CHƠI GIỮA MÙA TRĂNG''|}}</noinclude>Tình tiết ra theo tiếng hót của chim non, phối hiệp với sóng điện không-gian. Tình còn nuôi mãi trong nguồn ánh sáng thiêng-liêng và những sợi tơ thanh-khí của đêm hào hoa còn run lẩy bẩy vì tức-tối không nói được ra lời. Và đây là giòng nước cuốn khúc ly tao, có ai biết là tình đang man mát? Ôi chao ôi! thơ tôi bay cao chót vót quá lâu đài nước mây, là tình tôi đang phơi-phới. Đừng có ai đi trong nguồn hương mà và nhầm hồn phách của tôi!... Tôi làm mất tình rồi, chứ tôi đang kiếm đây. Không biết những tiếng hát đầu mùa có gặp cùng chăng? Thôi thôi! Đã có cô vãi non nào chận bắt tình tôi, đem về chùa đốt ra khói hương thơm. {{nop}}<noinclude></noinclude> qdkbkxi632nlfwozwqkr5r4q1fi97sg 195821 195820 2025-06-19T09:00:30Z Tranminh360 1642 195821 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" />{{rh|''44''|''CHƠI GIỮA MÙA TRĂNG''|}}</noinclude>Tình tiết ra theo tiếng hót của chim non, phối hiệp với sóng điện không-gian. Tình còn nuôi mãi trong nguồn ánh sáng thiêng-liêng và những sợi tơ thanh-khí của đêm hào hoa còn run lẩy bẩy vì tức-tối không nói được ra lời. Và đây là giòng nước cuốn khúc ly tao, có ai biết là tình đang man mát? Ôi chao ôi! thơ tôi bay cao chót vót quá lâu đài nước mây, là tình tôi đang phơi-phới. Đừng có ai đi trong nguồn hương mà và nhầm hồn phách của tôi!... Tôi làm mất tình rồi, chứ tôi đang kiếm đây. Không biết những tiếng hát đầu mùa có gặp cùng chăng? Thôi thôi! Đã có cô vãi non nào chận bắt tình tôi, đem về chùa đốt ra khói hương thơm.<noinclude></noinclude> r6upcbcpiiomia81y2use6bq2dxlfwf 195830 195821 2025-06-19T09:37:30Z Tranminh360 1642 195830 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" />{{rh|''44''|''CHƠI GIỮA MÙA {{SIC|TRANG|TRĂNG}}''|}}</noinclude>Tình tiết ra theo tiếng hót của chim non, phối hiệp với sóng điện không-gian. Tình còn nuôi mãi trong nguồn ánh sáng thiêng-liêng và những sợi tơ thanh-khí của đêm hào hoa còn run lẩy bẩy vì tức-tối không nói được ra lời. Và đây là giòng nước cuốn khúc ly tao, có ai biết là tình đang man mát? Ôi chao ôi! thơ tôi bay cao chót vót quá lâu đài nước mây, là tình tôi đang phơi-phới. Đừng có ai đi trong nguồn hương mà và nhầm hồn phách của tôi!... Tôi làm mất tình rồi, chứ tôi đang kiếm đây. Không biết những tiếng hát đầu mùa có gặp cùng chăng? Thôi thôi! Đã có cô vãi non nào chận bắt tình tôi, đem về chùa đốt ra khói hương thơm.<noinclude></noinclude> oeu0qubesr7e0jayv7fo0sigeuho4h3 Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/47 104 68432 195823 195678 2025-06-19T09:04:15Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195823 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" /></noinclude>{{g| {{lớn|{{letter-spacing|0.3em|ΤΗƠ}}}}}}<noinclude></noinclude> 0al0m50ji4yyzgjy9e3haqkyb9f82o1 Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/49 104 68433 195824 195679 2025-06-19T09:12:55Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195824 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" /></noinclude>{{không vào hàng|{{chữ đầu lớn|A}}''I nói vườn trăng là nói vườn mơ.''}} ''Ai nói bến mộng là nói bến tình.'' ''Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo.'' ''Trên đầu người là cao cả, vô biên và vô lượng, xung quanh người là mơn trớn với yêu đương vây phủ bởi trăm giây quyến luyến — Làm bằng êm dịu, làm bằng thanh bai... Gió phương mô đẩy đưa người đến bờ xa lạ, đầy trinh tiết và đầy thanh sắc. Người dừng lại để hái những lá tinh hoa. Người nín lặng để mà nghe tiếng trăng reo vang vang như tiếng châu báu vỡ lở. À, ra người cũng dại dột hốt vàng rơi bọc trong vạt áo.'' ''Trí người đã dâng cao và thơ người dâng cao hơn nữa. Thì ra người đang say sưa đi trong mơ ước, trong huyền diệu, trong sáng láng và vượt khỏi ra ngoài hư linh.'' {{mảng sao}} ''Tôi làm thơ?'' {{nop}}<noinclude></noinclude> mklvpttbj29hd6ax9evyrem1349x1sw Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/50 104 68434 195825 195680 2025-06-19T09:22:34Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195825 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" />{{rh|''48''|''CHƠI GIỮA MÙA TRĂNG''|}}</noinclude>''— Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng.'' ''Anh sẽ thấy hơi đàn lả lướt theo hơi thở của hồn tôi và chìu theo những sóng điện nóng ran trút xuống bởi năm đầu ngón tay uyển chuyển.'' ''Anh sẽ run theo khúc ngân nga của tơ đồng, sẽ để mặc cho giai âm rền rĩ nuối không ngưng'' ''Và anh sẽ cảm giác lạ, nhìn không chớp mắt khi một tia sáng xôn xao tại có vì sao vỡ. Những thứ ấy là âm điệu của thơ tôi, âm điệu thiêng liêng tạo ra trong khi máu cuồng rên vang dưới ngòi bút.'' ''Tôi làm thơ?'' ''— Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật.'' ''Và cũng nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên.'' ''Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú. Có ai ngăn cản được tiếng lòng tôi?'' {{mảng sao}}<noinclude></noinclude> kyerpn5akzo5vdncyp6tus2zvl5h8xu 195826 195825 2025-06-19T09:24:57Z Tranminh360 1642 Thêm {{nop}} để kết thúc đoạn văn vào cuối trang phía trước 195826 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" />{{rh|''48''|''CHƠI GIỮA MÙA TRĂNG''|}}</noinclude>''— Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng.'' ''Anh sẽ thấy hơi đàn lả lướt theo hơi thở của hồn tôi và chìu theo những sóng điện nóng ran trút xuống bởi năm đầu ngón tay uyển chuyển.'' ''Anh sẽ run theo khúc ngân nga của tơ đồng, sẽ để mặc cho giai âm rền rĩ nuối không ngưng'' ''Và anh sẽ cảm giác lạ, nhìn không chớp mắt khi một tia sáng xôn xao tại có vì sao vỡ. Những thứ ấy là âm điệu của thơ tôi, âm điệu thiêng liêng tạo ra trong khi máu cuồng rên vang dưới ngòi bút.'' ''Tôi làm thơ?'' ''— Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật.'' ''Và cũng nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên.'' ''Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú. Có ai ngăn cản được tiếng lòng tôi?'' {{mảng sao}} {{nop}}<noinclude></noinclude> p2dqca1nm23qjemlqi99ygzmxb0k695 Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/51 104 68435 195827 195681 2025-06-19T09:32:12Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195827 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" />{{rh||{{letter-spacing|0.4em|''THƠ''}}|''49''}}</noinclude>''Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi bằng máu, bằng lệ, bằng hờn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận, hờn đến gần đứt sự sống.'' {{mảng sao}} ''Thôi mời cô cứ vào...'' ''Ánh sáng lạ trong thơ tôi sẽ làm cho gò má cô đỏ gấc Và một khi cô đã vào là cô sẽ lạc, vì vườn thơ tôi rộng rinh không bờ bến. Càng đi xa là càng ớn lạnh...'' {{nhỏ|Tựa « Thơ điên »}}<br/> {{cách|4em}}{{nhỏ|1938}}<noinclude></noinclude> fdumoxqbjslz64uawaxirtceivvwaiz 195828 195827 2025-06-19T09:33:18Z Tranminh360 1642 195828 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" />{{rh||{{letter-spacing|0.4em|''THƠ''}}|''49''}}</noinclude>''Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận, hờn đến gần đứt sự sống.'' {{mảng sao}} ''Thôi mời cô cứ vào...'' ''Ánh sáng lạ trong thơ tôi sẽ làm cho gò má cô đỏ gấc Và một khi cô đã vào là cô sẽ lạc, vì vườn thơ tôi rộng rinh không bờ bến. Càng đi xa là càng ớn lạnh...'' {{nhỏ|Tựa « Thơ điên »}}<br/> {{cách|4em}}{{nhỏ|1938}}<noinclude></noinclude> 7u5mmz89r3t199k5pe23cy46wknl7ox Trang:Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf/53 104 68436 195831 195682 2025-06-19T09:39:07Z Tranminh360 1642 /* Đã hiệu đính */ 195831 proofread-page text/x-wiki <noinclude><pagequality level="3" user="Tranminh360" /></noinclude>{{g| {{lớn|{{letter-spacing|0.2em|'''RA ĐỜI'''}}}}}}<noinclude></noinclude> b7ic662u410mgsc2pcuts9dwwczhgq8 Thành viên:Mrfly911 2 68467 195802 195765 2025-06-19T07:31:29Z Mrfly911 2215 195802 wikitext text/x-wiki == Dịch các sử liệu chữ Hán sang tiếng Việt == === Hán === * Sử ký: [[Biên dịch:Sử ký]] ** Sử ký: [[Biên dịch:Sử ký/Quyển 113| Quyển 113 Nam Việt úy Đà liệt truyện]] === Tấn === * [[Biên dịch:Giao Châu ký]] === Đường === * [[Bổ An Nam lục dị đồ ký]] * [[Lữ ngụ An Nam]] === Tống === * Tống sử: [[Biên dịch:Tống sử]] ** Tống sử: [[Biên dịch:Tống sử/Quyển 488|Quyển 488 Liệt truyện 247 Ngoại quốc tứ – Giao Chỉ, Đại Lý]] === Nguyên === === Minh === * Minh sử: [[Biên dịch:Minh sử]] ** Minh sử: [[Biên dịch:Minh sử/Quyển 321|Quyển 321 Liệt truyện đệ 209 Ngoại quốc 2: An Nam]] * [[Bình An Nam chiếu]] * [[Lê Thì Cử đối đáp Tào Thân (1)]] * [[Lê Thì Cử đối đáp Tào Thân (2)]] === Thanh === * [[Tống Triều Tiên quốc sứ kỳ nhất]] * Thanh sử cảo: [[Biên dịch:Thanh sử cảo]] ** Thanh sử cảo: [[Biên dịch:Thanh sử cảo/Quyển 527| Quyển 527 liệt truyện tam bách thập tứ Thuộc quốc nhị: An Nam]] 5hu8anzt93r1nyvl43ctvyv839qz8es Tập bài thi bằng Sơ học yếu lược/14 0 68468 195766 2025-06-18T12:08:06Z Tranminh360 1642 [[w:WP:TTL|←]]Trang mới: “{{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = | ghi đè tác giả = của [[Tác gia:Dương Quảng Hàm|Dương Quảng Hàm]] và [[Tác gia:Dương Tụ Quán|Dương Tụ Quán]] | dịch giả = | phần = 14. — Nghề nghiệp | trước = [[../13|13]] | sau = [[../15|15]] | ghi chú = }} <pages index="Tap bai thi bang So hoc yeu luoc.pdf" from=25 to=26 fromsection="14" tosection="14" />” 195766 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = | ghi đè tác giả = của [[Tác gia:Dương Quảng Hàm|Dương Quảng Hàm]] và [[Tác gia:Dương Tụ Quán|Dương Tụ Quán]] | dịch giả = | phần = 14. — Nghề nghiệp | trước = [[../13|13]] | sau = [[../15|15]] | ghi chú = }} <pages index="Tap bai thi bang So hoc yeu luoc.pdf" from=25 to=26 fromsection="14" tosection="14" /> 6gv0mh516t2blzz8v7x8gmyy0k9t5eu Tập bài thi bằng Sơ học yếu lược/15 0 68469 195767 2025-06-18T12:10:21Z Tranminh360 1642 [[w:WP:TTL|←]]Trang mới: “{{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = | ghi đè tác giả = của [[Tác gia:Dương Quảng Hàm|Dương Quảng Hàm]] và [[Tác gia:Dương Tụ Quán|Dương Tụ Quán]] | dịch giả = | phần = 15. — Làm ruộng | trước = [[../14|14]] | sau = [[../16|16]] | ghi chú = }} <pages index="Tap bai thi bang So hoc yeu luoc.pdf" from=26 to=27 fromsection="15" tosection="15" />” 195767 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = | ghi đè tác giả = của [[Tác gia:Dương Quảng Hàm|Dương Quảng Hàm]] và [[Tác gia:Dương Tụ Quán|Dương Tụ Quán]] | dịch giả = | phần = 15. — Làm ruộng | trước = [[../14|14]] | sau = [[../16|16]] | ghi chú = }} <pages index="Tap bai thi bang So hoc yeu luoc.pdf" from=26 to=27 fromsection="15" tosection="15" /> rvlkbjkaq0sstsvvtdozq1s2gtdj32j Tập bài thi bằng Sơ học yếu lược/16 0 68470 195768 2025-06-18T12:13:15Z Tranminh360 1642 [[w:WP:TTL|←]]Trang mới: “{{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = | ghi đè tác giả = của [[Tác gia:Dương Quảng Hàm|Dương Quảng Hàm]] và [[Tác gia:Dương Tụ Quán|Dương Tụ Quán]] | dịch giả = | phần = 16. — Sáng ban đêm | trước = [[../15|15]] | sau = [[../17|17]] | ghi chú = }} <pages index="Tap bai thi bang So hoc yeu luoc.pdf" from=27 to=28 fromsection="16" tosection="16" />” 195768 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = | ghi đè tác giả = của [[Tác gia:Dương Quảng Hàm|Dương Quảng Hàm]] và [[Tác gia:Dương Tụ Quán|Dương Tụ Quán]] | dịch giả = | phần = 16. — Sáng ban đêm | trước = [[../15|15]] | sau = [[../17|17]] | ghi chú = }} <pages index="Tap bai thi bang So hoc yeu luoc.pdf" from=27 to=28 fromsection="16" tosection="16" /> g2ifbt1qfl9kdz7fvyx9c13zlmth8ff Tập bài thi bằng Sơ học yếu lược/17 0 68471 195769 2025-06-18T12:16:31Z Tranminh360 1642 [[w:WP:TTL|←]]Trang mới: “{{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = | ghi đè tác giả = của [[Tác gia:Dương Quảng Hàm|Dương Quảng Hàm]] và [[Tác gia:Dương Tụ Quán|Dương Tụ Quán]] | dịch giả = | phần = 17. — Con trâu | trước = [[../16|16]] | sau = [[../18|18]] | ghi chú = }} <pages index="Tap bai thi bang So hoc yeu luoc.pdf" from=28 to=29 fromsection="17" tosection="17" />” 195769 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = | ghi đè tác giả = của [[Tác gia:Dương Quảng Hàm|Dương Quảng Hàm]] và [[Tác gia:Dương Tụ Quán|Dương Tụ Quán]] | dịch giả = | phần = 17. — Con trâu | trước = [[../16|16]] | sau = [[../18|18]] | ghi chú = }} <pages index="Tap bai thi bang So hoc yeu luoc.pdf" from=28 to=29 fromsection="17" tosection="17" /> g76b0an9phltj9d5t5sshwonxzih99t Tập bài thi bằng Sơ học yếu lược/18 0 68472 195770 2025-06-18T12:18:34Z Tranminh360 1642 [[w:WP:TTL|←]]Trang mới: “{{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = | ghi đè tác giả = của [[Tác gia:Dương Quảng Hàm|Dương Quảng Hàm]] và [[Tác gia:Dương Tụ Quán|Dương Tụ Quán]] | dịch giả = | phần = 18. — Cây tre | trước = [[../17|17]] | sau = [[../19|19]] | ghi chú = }} <pages index="Tap bai thi bang So hoc yeu luoc.pdf" from=29 to=30 fromsection="18" tosection="18" />” 195770 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = | ghi đè tác giả = của [[Tác gia:Dương Quảng Hàm|Dương Quảng Hàm]] và [[Tác gia:Dương Tụ Quán|Dương Tụ Quán]] | dịch giả = | phần = 18. — Cây tre | trước = [[../17|17]] | sau = [[../19|19]] | ghi chú = }} <pages index="Tap bai thi bang So hoc yeu luoc.pdf" from=29 to=30 fromsection="18" tosection="18" /> bxw9oxz7gva4s6v82dcgwxuimirvmnv Chơi giữa mùa trăng/Mùa thu chưa tới 0 68473 195778 2025-06-19T06:17:41Z Tranminh360 1642 [[w:WP:TTL|←]]Trang mới: “{{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = Hàn Mặc Tử | dịch giả = | phần = Mùa thu chưa tới | trước = [[../Chơi giữa mùa trăng|Chơi giữa mùa trăng]] | sau = [[../Kêu gọi|Kêu gọi]] | ghi chú = }} <pages index="Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf" from=19 to=23 />” 195778 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = Hàn Mặc Tử | dịch giả = | phần = Mùa thu chưa tới | trước = [[../Chơi giữa mùa trăng|Chơi giữa mùa trăng]] | sau = [[../Kêu gọi|Kêu gọi]] | ghi chú = }} <pages index="Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf" from=19 to=23 /> 0oe9uj11d3l8zq006fheidyfvg0gtii Chơi giữa mùa trăng/Kêu gọi 0 68474 195788 2025-06-19T06:41:42Z Tranminh360 1642 [[w:WP:TTL|←]]Trang mới: “{{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = Hàn Mặc Tử | dịch giả = | phần = Kêu gọi | trước = [[../Mùa thu chưa tới|Mùa thu chưa tới]] | sau = [[../Quan niệm thơ|Quan niệm thơ]] | ghi chú = }} <pages index="Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf" from=25 to=28 />” 195788 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = Hàn Mặc Tử | dịch giả = | phần = Kêu gọi | trước = [[../Mùa thu chưa tới|Mùa thu chưa tới]] | sau = [[../Quan niệm thơ|Quan niệm thơ]] | ghi chú = }} <pages index="Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf" from=25 to=28 /> mv90w60vq2qn93fjntxqrflbycw30oh Chơi giữa mùa trăng/Quan niệm thơ 0 68475 195807 2025-06-19T08:03:41Z Tranminh360 1642 [[w:WP:TTL|←]]Trang mới: “{{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = Hàn Mặc Tử | dịch giả = | phần = Quan niệm thơ | trước = [[../Kêu gọi|Kêu gọi]] | sau = [[../Khao khát|Khao khát]] | ghi chú = }} <pages index="Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf" from=29 to=37 /> {{reflist}}” 195807 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = Hàn Mặc Tử | dịch giả = | phần = Quan niệm thơ | trước = [[../Kêu gọi|Kêu gọi]] | sau = [[../Khao khát|Khao khát]] | ghi chú = }} <pages index="Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf" from=29 to=37 /> {{reflist}} 31h63nnihp4x7cf0rsxfujab212w1ui Chơi giữa mùa trăng/Khao khát 0 68476 195813 2025-06-19T08:31:48Z Tranminh360 1642 [[w:WP:TTL|←]]Trang mới: “{{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = Hàn Mặc Tử | dịch giả = | phần = Khao khát | trước = [[../Quan niệm thơ|Quan niệm thơ]] | sau = [[../Tình|Tình]] | ghi chú = }} <pages index="Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf" from=39 to=42 />” 195813 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = Hàn Mặc Tử | dịch giả = | phần = Khao khát | trước = [[../Quan niệm thơ|Quan niệm thơ]] | sau = [[../Tình|Tình]] | ghi chú = }} <pages index="Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf" from=39 to=42 /> qag0jzrfdx2xms4wktkv4b81ej96tqu Chơi giữa mùa trăng/Tình 0 68477 195822 2025-06-19T09:02:09Z Tranminh360 1642 [[w:WP:TTL|←]]Trang mới: “{{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = Hàn Mặc Tử | dịch giả = | phần = Tình | trước = [[../Khao khát|Khao khát]] | sau = [[../Thơ|Thơ]] | ghi chú = }} <pages index="Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf" from=43 to=46 />” 195822 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = Hàn Mặc Tử | dịch giả = | phần = Tình | trước = [[../Khao khát|Khao khát]] | sau = [[../Thơ|Thơ]] | ghi chú = }} <pages index="Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf" from=43 to=46 /> fp0je260dif38cnxblfa5qgpebrvckm Chơi giữa mùa trăng/Thơ 0 68478 195829 2025-06-19T09:35:43Z Tranminh360 1642 [[w:WP:TTL|←]]Trang mới: “{{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = Hàn Mặc Tử | dịch giả = | phần = Thơ | trước = [[../Tình|Tình]] | sau = [[../Ra đời|Ra đời]] | ghi chú = }} <pages index="Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf" from=47 to=51 />” 195829 wikitext text/x-wiki {{đầu đề | tựa đề = [[../]] | tác giả = Hàn Mặc Tử | dịch giả = | phần = Thơ | trước = [[../Tình|Tình]] | sau = [[../Ra đời|Ra đời]] | ghi chú = }} <pages index="Chơi Giữa Mùa Trăng (ngày mới).pdf" from=47 to=51 /> olscn8cszz214us1ou86jq22k3y51ed